Báo TRĂM HOA của NGUYỄN BÍNH
MINH DIỆN
Vào ngày này 58
năm trước, 2-9-1955, tờ báo Trăm Hoa ra đời, đặt Tòa soạn tại 15 Hai Bà Trưng,
Hà Nội. Đó là tờ báo tư nhân hiếm hoi xuất bản vào đúng ngày Quốc khánh năm thứ
10 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do nhà giáo, nhà văn Nguyễn Mạnh Phác, tức
Trúc Đường, làm chủ nhiệm, và nhà thơ Nguyễn Bính, em trai ông, làm chủ bút. Tờ
Trăm Hoa chỉ tồn tại được hơn tám tháng, phát hành được 31 số báo, đến giữa
tháng 5-1956 phải đình bản vì lỗ vốn và cũng do một sắc lệnh...Hơn 5 tháng sau,
20-10-1956, tờ Trăm Hoa tiếp tục xuất bản (hay còn gọi “Trăm hoa mới”), dời tòa
soạn về 17 Lê Văn Hưu, do Nguyễn Bính làm chủ nhiệm và cũng là chủ bút. Nhưng
Trăm Hoa này mệnh cỏn yểu hơn, chỉ ra được 16 số , đến đầu tháng 6-1957, Nguyễn Bính phải tuyên bố “làm
đám ma cho báo Trăm Hoa”.
Hai tờ báo Trăm
Hoa đều “Sớm nở tối tàn”, và nhà thơ
Nguyễn Bính phải ngậm ngùi rời Hà Nội về Nam Định, nơi ông sinh ra, sống lay
lắt mười năm, và ngày 9-2-1957, tức 30 tết Bính Ngọ ông qua đời khi vừa tròn 49
tuổi .
Kể từ ngày ấy,
ngoài vài bài thơ đã dân gian hóa như “Lỡ bước sang ngang” , “Chân quê”, “Cô
hàng xóm”..., tác phẩm của Nguyễn Bính hầu như chìm vào quên lãng. Tên
tuổi tờ báo Trăm Hoa và tên tuổi
nhà thơ ít người nhắc tới.
Đến giữa thập kỷ 80 thế kỷ trước, sau khi Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói
cho văn nghệ sỹ” nhiều tác phẩm của Nguyễn Bính mới được xuất bản, đồng thời
với những bài viết ca ngợi ông. Tuy nhiên các bài viết rất dè dặt khi nói về số phận
của tờ báo Trăm Hoa và cái chết bi thương của nhà thơ Nguyễn Bính.
Những người rất
thân ông, từng là nạn nhân trong vụ Nhân văn-Giai phẩm như Trần Lê Văn, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hoài
Việt thì e ngại. Đọc “Cát bụi chân ai”
và “Chiều chiều” thấy nhà văn lão thành Tô Hoài nói lấp lửng, úp mở vài điều.
Còn Chu Văn, thì tả chân dung Nguyễn Bính
khá chi li và tỏ ra quý mến và ưu ái ông : “ Nguyễn Bính về Nam Hà, tuổi
gần năm mươi, gầy , đen, tóc cắt ngắn gần như trọc. Anh ăn mặc thật giản dị:
Một cái áo sơ mi màu nâu, một quần ka ki bạc màu, và đôi dép cao su. Toàn bộ
hình thức ấy không gợi một vẻ gì một nhà thơ lớn trước đây - sau này người ta
gọi là “thi nhân tiền chiến”. Anh cười đôi mắt nâu, sắc sảo, ánh hơi lạnh, và
nụ cười khô, hàm răng ám khói thuốc lào” (nguồn Tuyển tập Nguyễn Bính , NXB Văn
học,1986, trang 191)
Năm 2010 nhà
nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân có một bài viết khá công phu về tuần báo Trăm
Hoa, qua đó giúp mọi người hiểu được phần nào nguyên nhân “sớm nở tối tàn” của
báo Trăm Hoa và chuyện Nguyễn Bính phải ngậm ngùi rời Hà Nội về Nam Định, chết
cô đơn giữa quê hương mình, nhưng trong bài đó, ông không nói về quãng đời phiêu lưu trước đó của
nhà thơ.
Nhân dịp Quốc
Khánh năm nay, tôi ra Phú Quốc, tình cờ thấy một tảng đá trong khu vườn Resort
trên bờ biển khắc bài thơ (theo kiểu thư
pháp) “Cánh buồm nâu” của Nguyễn Bính:
“Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò
nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm
nâu, cánh buồm...”
Người chủ Resort
nói ông khắc bài thơ của Nguyễn Bính lên đá vì Nguyễn Bính đã từng đến Phú Quốc
với nhà thơ Đông Hố trước cách mạng tháng Tám 1945. Không biết chi tiết đó có
đúng không, nhưng quả thật đứng
bên tảng đá thơ thơ ấy, nhìn biển hoàng hôn, một người chằng phải là nhà
thơ như tôi cũng cảm thấy nao lòng. Tôi có cảm giác cánh buồm nâu kia như hình
dáng nhà thơ Nguyễn Bính thấp thoáng trên biển hoàng hôn về nơi vô định, như số
phận long đong của ông. Từ cảm xúc đó
tôi ngồi trước máy vi tính viết về ông,như một kẻ ngoại đạo “múa rừu qua mắt
thợ” là các nhà thơ .
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh ngày
13-2-1918, tức 3 tháng Giêng năm Mậu Ngọ, cầm tinh con ngựa, là con cụ Nguyễn Đạo Bình,một nhà nho ở thôn Thiện
Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Người cầm tinh con Ngựa, mạng Thiên Thượng Hỏa lại
sinh vào tháng Dần, đầu mùa xuân, là người tài ba xuất chúng, tính cương trực,
tự cao, thích phiêu lưu, công việc hay đổ vỡ vì nóng nảy, tình duyên trắc trở
và số phận đắng cay! Có lẽ cái “lá số tử vi” ấy một phần nào đúng khi đối chiếu
với cuộc đời của Nguyễn Bính.
Mẹ ông, bà Bủi
Thị Miện (vợ ông Nguyễn Đạo Bình) sinh được ba người con là Nguyễn Mạnh Phác,
Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính. Nguyễn Bính chưa được ba tháng tuổi thỉ bà Miện
bị rắn độc cắn và mất khi mới 24 tuổi. Bà cả Giần chị gái bà Miện, phải bế cháu
đi bú nhờ khắp làng :
“Còn tôi sống sót
là may
Mẹ hiền mất sớm trời đày
làm thơ!”
Sau này Nguyễn
Bính đã viết hai câu thơ đó khi nghĩ về thân phận mồ côi của mình.
Ông Nguyễn Đạo
Bình lấy vợ khác, ba anh em Nguyễn Bính được cậu ruột là Bùi Trình Khiêm mang về nuôi. Cụ Bùi Trình
Khiêm vốn dòng tộc khoa bảng, bản tính nhân hậu, độ lượng và rất nghiêm cẩn gìn
giữ nền nếp gia phong. Cụ có người con trai là nhà văn Bùi Hạnh Cẩn nên
cũng hướng các cháu đi theo con đường văn nghiệp. Nguyễn Mạnh Phác học
hết thành trung , đi dạy học, sau theo
nghiệp văn, với bút danh Trúc Đường,
Nguyễn Ngọc Thụ cũng có thời viết báo. Còn Nguyễn Bính là thần đồng thơ từ lúc còn nhỏ.
Năm 13 tuổi
Nguyễn Bính đã đoạt giài nhất trong cuộc thi hát trống quân ở hội làng. Bài hát
có đoạn:
Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy
người?
Chưa chồng mấy ả,em thời
biết không
Đố ai đi khắp tây đông
Làm sao kiềm nổi tấm
chồng như chúng anh đây?
Làm sao như rượu mới say
Như giăng mới mọc như
cây mới trồng…
Nguyễn Mạnh Phác
lên Hà Đông dạy học tư, đưa Nguyễn Bính theo, kèm cặp em , đặc biệt về văn học Pháp qua những tác phẩm của Victor
Hugo, G.Mopasxang, Louis Aragon, Joachim du Belley, Jacques Brel... Nguyễn Bính
từ đó gắn bó với anh trai cả về văn
chương và cuộc sống. “Lỡ bước sang ngang” chính là bài thơ Nguyễn Bính viết về
mối tình của anh trai với
người Nguyễn Bính đã gọi là chị dâu, nhưng không thành, một mối tình đẹp
như mơ đầy ngang trái:
“Hôm nay xác pháo đầy
đường
Ngày mai khói pháo còn
vương khắp làng
Chuyến này chị bước
sang ngang
Là tan vỡ giấc mộng
vàng từ đây”
Nguyễn Bính
trưởng thành sớm và thơ ông càng vượt
lên trước tuổi. Năm 1932-1933, mới mười bốn, mười lăm tuổi, Nguyễn Bính đã
theo bạn lên tận vùng Đồng Hỷ, Thái Nguyên, si tình như một người trưởng thành:
“Da trời ai nhuộm mà
lam
Tình ta ai nhuộm ai
làm cho phai”
Hay:
“Hỡi cô con gái hái
mơ già
Cô chửa về ư? Đường
thì xa
Mà cái thoi ngày
như sắp tắt
Hay cô ở lại về cùng
ta?”
Năm 1937, mười
chín tuổi , Nguyễn Bính đoạt giải khuyến khích thơ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, ba
năm sau , bước vào tuổi hai hai, thơ ông
nổi như cồn từ Bắc chí Nam .
Cũng như nhiều
văn nghệ sỹ khác thời ấy, Nguyễn Bính muốn vào đàng trong tìm hồn thơ ở sông
Hương, núi Ngự cố đô Huế. Nguyễn Mạnh
Phác chiều lòng em, bán chiếc máy chụp ảnh là thứ rất quý giá bấy
giờ, và về quê bán luôn những tảng đá
xanh lát thềm nhà lấy tiền làm lộ phí
cho Nguyễn Bính.
Từ Huế , Nguyễn
Bính gửi thơ cho Nguyễn Mạnh Phác in báo, cũng là gửi tâm tư mình cho anh chị:
“Bốn bể vẫn chưa yên
sóng gió
Xuân này em chị vẫn
tha hương
Vẫn ăn cái tết ngoài thiên hạ
Son sắt say hoài
rượu bốn phương”
......
“Thời chưa gặp đỏ,
nằm xuông mãi
Xuông cả ân tình
rượu cũng xuông
Trước mặt bút nghiên , sầu
tịch mịch
Quanh mình chăn
chiếu rộn tang thương”
Năm 1943, Nguyễn
Bính đi biệt vào miền Tây Nam Bộ , kết bạn vong niên với nhà thơ Đông Hồ và
Kiên Giang.
Cuộc khởi tháng
8- 1945 thành công,rồi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Đông Hổ, Kiên Giang,
Nguyễn Bính hòa vào dòng thác cách mạng
do Hồ Chủ tịch đứng đầu.
Bấy giờ ở Sài
Gòn chính phủ “Nam kỳ tự trị” của thủ tường Nguyễn Văn Thịnh treo giải cho
người nào đưa được nhà thơ Nguyễn Bính dinh tê, sẽ thưởng 1000 đồng bạc Đông
Dương. Nếu Nguyễn Bính tự vào thành cũng được thưởng món tiền đó, ngoài ra còn
được bảo đảm cuộc sống sung túc. Một ngàn đồng Đông Dương lúc đó mua được xe hơi,
nhả lẩu , bằng cả một cơ nghiệp. Có người
viết thư khuyên Nguyễn Bính nên bỏ Việt Minh theo chính phủ Nam kỳ tự
trị, sống sung sướng và tự do sáng tác.
Tổ chức cách mạnh đâm nghi Nguyễn Bính “rẽ bước sang ngang”. Ông đã trả lời
thẳng thắn bằng hai câu thơ :
“Mình không bỏ Sở
sang Tề
Mình không là kẻ lỗi
thề thì thôi!”
Thái độ dứt
khoát ấy còn thể hiện bằng việc Nguyễn Bính
gia nhập Vệ quốc đoàn. Tướng Trần Văn Trà và Nguyễn Văn Vịnh, những người rất thích thơ
Nguyễn Bính, đã nói với Bảo Định Giang:
“ Đối đãi đàng hoàng,chăm sóc chu đáo tác giả Lỡ bước sang ngang”. Cả bí thư
khu ủy Lê Duẩn cũng quý mến Nguyễn Bính. Ông đã mai mối cho Nguyễn Bính lấy
Nguyễn Hồng Châu, một cán bộ phụ nữ miền Nam
xinh đẹp, và hai người đã sinh được người con gái đặt tên là Nguyễn Bính
Hồng Cầu.
Nguyễn Bính và Đoàn Giỏi (giả gái) - Ảnh chụp từ tư liệu của ông Hoàng Tấn |
Nguyễn Bính quấn
khăn rằn, khoác súng trường, đeo nóp
cùng những người lính chinh chiến
từ rừng U Minh đất mũi miền Tây, đến
Đồng Tháp Mười miền Đông . Ông chung võng, chung chăm, chung mảnh khăn rằn cùng
người lính. Mổ hôi , nước mắt và máu của quân dân Nam Bộ hòa vào thơ ông , vừa
đằm thắm nghĩa tình, vừa hào sảng , đẫm sắc thái phương Nam . Ông theo chân các chiến sỹ Tiểu đoàn cơ động
307, tham gia trận Mộc Hóa, La Bang và
bài thơ
“Tiểu đoàn 307”, ông sáng tác năm 1949, đăng trên báo Tổ Quốc , Khu 8,
được nhạc sỹ Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng sống mãi cùng năm tháng:
“Ai đã từng đi qua
sông Cửu Long giang
Cửu Long giang sóng
trào nước soáy
Ai đã từng nghe
tiếng tiểu đoàn
Tiếng Tiểu đoản ba
trăm lẻ bảy
Buổi xuất quân
tiểu đoàn năm ấy
Cả tiểu đoàn thề
dưới sao vàng
Người chiến sỹ
tiếc gì máu rơi
Buổi xuất quân
tiểu đoàn năm ấy
Nguyện một lòng
giữ vững non sông...”
Năm 1954, Nguyễn
Bình tập kết ra Bắc theo hiệp định Genève.Ông cũng như cán bộ chiến sỹ miền Nam tập kết
đinh ninh rằng hai năm sẽ có hiệp thương thống nhất, nhưng rồi niềm tin ấy tắt
ngấm. Cảnh “ngày Bắc , đêm Nam ”
day dứt, khắc khoải, rất sâu đậm trong
bài thơ “ Gửi vợ miền Nam ”
của Nguyễn Bính:
“Thư một bức ngàn
lời tâm huyết
Đêm canh dài thức
viết cho em
Bồi hồi máu ứ
trong tim
Chảy theo ngòi bút hiện lên thư
này”
.....
“Ai chia cắt kẻ Nam người Bắc
Mảnh trăng tròn ai
cắt làm đôi?
Ai làm máu đổ lệ
rơi
Ai đang lấp ngõ,
ai xui phá cầu?”
Nỗi khắc khoải
dần nguôi ngoai, và Nguyễn Bính bị cuốn
vào công cuộc xây dựng miền Bắc. Cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ bấy giờ,
Nguyễn Bính đặt niềm tin vào chế độ mới,
tiếng thơ của ông có vẻ gượng gạo giữa
một “dàn tụng ca” nhuần nhuyễn của Tố Hữu, Huy Cân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên...
“Từng lớp người
vĩ đại
Cuồn cuộn đi
trong một biển cờ
Đi giữa lòng ngưỡng mộ
Đi giữa tiếng
hoan hô
Những bước
chân chiến thắng
Rầm rập vang
rền nẻo cố đô
Người Hà Nội
vỗ tay trào nước mắt
Ôi! Tám năm
đằng đẵng mong chờ”
Và:
“Đường dài
nghĩa nặng tình sâu
Ăn cơm Trung
Quốc đi tàu Liên Xô”
Có lẽ Nguyễn
Bính sẽ được ưu ái chả kém gì các nhà văn miền Nam tập kết như Nguyễn Văn Bổng,
Bảo Định Giang, Đoàn Giỏi nếu ông cứ khai thác cái mạch thơ ấy, và nhất là đừng
đụng chạm đến Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh . Nhưng với tính cách tự do phóng túng và kiêu kỳ khinh bạc của
mình , Nguyễn Bính không chịu cúi luồn. Ông bỏ cơ quan nhà nước là Nhà xuất bản
Văn Nghệ , ra làm báo tư nhân, để được viết, được đăng những gì mình muốn.
Tờ Trăm Hoa mới
của Nguyễn Bính đã đánh thẳng vào
cái thói cửa quyền, bè phái, sùng bái cá nhân, nịnh bợ trong giới văn nghệ, làm
cho đời sống văn học bị độc tôn hóa , phiến diện hóa, ém nhẹm thông tin hóa, mà
tiêu biểu là việc trao “Giải thưởng văn học 1954- 1955”. Giải thưởng văn học đó
bị Nguyễn Bính cho là sai lầm nghiêm
trọng, là một nỗi nhục, và ông đề nghị xét lại toàn bộ giải thưởng , cụ thể :
Đưa tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu từ giải
nhất xuống giải nhì , bỏ giải nhì tập
thơ Ngôi Sao của Xuân Diệu đi, loại
tập ca dao của Nguyễn Hiêm, tập Thơ
chiến sỹ, tập bút ký “Nam bộ mến yêu”, kịch bản “ Việt ơi”, truyện ngắn” Cái
lu” ra khỏi giải , đưa tập thơ “Chú Hai Neo” và tập thơ của Tú Mỡ từ giải nhì xuống giải khuyến khích, xét
lại truyện “Đất nước đứng lên” của
Nguyên Ngọc có nên để giải nhất hay đưa
xuống giải nhì và đưa vào giải
những tác phẩm có giá trị của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
Có lẽ chưa có
bài viết nào cụ thể về tập thơ “Ngôi sao” của Xuân Diệu, bằng bài viết Nguyễn
Bính . Thời bấy giờ, với cái dáng sừng sững như cây cổ thụ giữa rừng của Xuân
Diện , mà Nguyễn Bính dám nói bốp chát như dao chém đá thì quả thật đáng phục.
Ông Viết : “ Bản thảo tập thơ Ngôi Sao đã đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ
xem. Toàn thể anh em văn nghệ công tác ở nhà xuất bản đều thấy là dở quá. (Tô
Hoài, Kim Lân, Nguyễn Bính...)không đồng ý cho in. Quyển đó cứ bỏ lay bỏ lắt
4-5 tháng. Nhưng cấp trên cứ dục in. Túng thế anh em đành lựa một số bài không
đến nỗi tồi lắm đưa sang nhà in Quốc gia (lúc ấy còn coi cả việc phát hành sách
báo)thì bên ấy cũng không chịu in. Vì lẽ “Thơ Xuân Diệu không có độc giả”. Xuân
Diệu lại vận động mãi với cấp trên , sau bất đắc dĩ nhà in Quốc gia nể quá mới
in 1.500 quyển. Khi in ra , tập Ngôi sao đã bị dư luận chỉ trích rất nhiều.
Điều đó thiết tưởng thường vụ Hội phải biết rõ hơn ai hết. Xin nói thêm rằng
hồi cho in tập Ngôi sao, là hồi nhà xuất
bản Văn nghệ cùng đóng chung một căn nhà với thường vụ Hội (51 Trần Hưng Đạo) ,
thường vụ Hội mặc dù có bưng tai bịt mắt đến đâu chăng nữa chắc cũng phải nghe
dư luận ở những anh em cùng chung một nhà ở, cùng chung một bàn ăn, đối với tập
Ngôi Sao. Vậy mà đến lúc chấm giải vẫn cứ để cho nó được giải. Mà lại giải nhì.
Như thế thì hiền như bụt cũng phải thắc măc”
Nguyễn Bính vạch ra lý do tập thơ Ngôi Sao của Xuân Diệu
được giải nhì vì: “ Ông Xuân Diệu trong Ban giám khảo đưa tác phẩm mình dự thi,
tự chấm giải cho mình. Ông Huy Cận trong Ban giám khảo với Xuân Diệu là một. Ông
Hoài Thanh trong Ban giám khảo lại là vụ trưởng vụ nghệ thuật là cấp dưới của ông thứ trưởng Huy Cận”
Nguyễn Bính phẫn
nộ: “ Anh em không thể ngờ Ban giám khảo lại có thể khinh thường văn nghệ, khinh thường anh em và quần
chúng đến mức ấy”
Chao ôi thế mà
những bài thơ trong tập Ngôi Sao của Xuân Diệu xuất hiện nhan nhản trong sách
giáo khoa thì có giết người không!
Về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu đoạt giải nhất, Nguyễn
Bính táo tợn viết bằng giọng châm biếm
rất sâu sắc: “ Khi bắt đầu đặt giải
thưởng Văn học toàn quốc 1954-1955, anh em văn nghệ sỹ gặp nhau thường hay nói
đùa một câu : Giải thưởng này cái gì thì không biết, chứ tập thơ Việt Bắc thì
chém chết cũng được giải nhất rồi. Tất nhiên chúng ta đều hiểu rằng câu nói đó không phải là một
câu tán dương. Anh em nhớ mãi cái cuộc tranh luận về quyển thơ Việt Bắc, chưa
ngã ngũ ra sao, thì các ông lãnh đạo Hội đã vội vàng đưa ra mấy bài “bịt lỗ
châu mai”lại. Anh em không thể nào quên cái câu ông Hoài Thanh phát biểu :
“Địch nó không mong gì hơn là ta chê thơ Tố Hữu”. Ông Hoài Thanh đã mang cả
địch ra mà bảo vệ cho thơ Tố Hữu . Cái lối nịnh trên nạt dưới ấy tất nhiên ông
Hoài Thanh phải đem sử dụng vào việc chấm giải... Sở dĩ anh em biết trước thế nào tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu cũng đoạt
giải nhất bởi anh em không còn lạ gì cái tệ sùng bái cá nhân của một số cá nhân
lãnh đạo Hội Văn nghệ”
Cái tội Nguyễn
Bính cả gan xúc phạm đến Tố Hữu, Hoài Thanh và anh em nhà Huy Cận, Xuân Diệu đã
là tội tày đình. Nhưng người ta chưa đụng tới Nguyễn Bính,thậm chí còn muốn sử
dụng ông làm một thứ vũ khí sắc bén để đánh nhóm Nhân Văn- Giai Phẩm.
Còn nhớ,
khi tờ Trăm Hoa cũ của Nguyễn Mạnh Phác
và Nguyễn Bính chỉ ra được 31 số rồi phải đình bản vì : “ Phải mua giấy giá cao
hơn so với giá cung cấp dành cho các báo nhà nước và đoàn thể, các cơ sở phát
hành lớn của hệ thống “hiệu sách nhân dân” không bán các báo tư nhân, ngoài ra
còn một trở ngại đáng kể là cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương
thường gây trở ngại cho phóng viên và người phát hành các báo tư nhân” nên lỗ
vốn, hết tiền. Thì ngay lúc đó lại
người giúp tiền cho Nguyễn Bính ra tờ Trăm Hoa mới. Người đó là ai?
Trong “Cát bụi
chân ai”, Tô Hoải đã trả lời câu hỏi đó : “ Cấp trên đã có sáng kiến lấy giấy
và tiền nhà của xuất bản Văn Nghệ dúp Trăm Hoa, và giao nhiêm vụ cho Tô Hoài thuyết phục tờ báo tư nhân nhưng có tiếng nói
chống những luận điệu ngang ngược của báo Nhân Văn giai phẩm”. Qủa là một đòn
hiểm của các nhà lãnh đạo!
Kết quả theo
nhận định của Tô Hoài : “ Tờ Trăm Hoa có một vẻ khác. Không về bè với Nhân văn
giai phẩm, nhưng chẳng đi với ai. Cấp trên nhận xét từng số, từng bài, cho là
chưa đủ hơi sức hỗ trợ cấn thiết”.
Tô Hoài đem nhận
xét ấy bàn lại với Nguyễn Bính. Nguyễn Bính bảo Tô Hoài : “ Trăm Hoa thế mới là
báo của Nguyễn Bính chứ. Nếu không thì mày làm quách cho xong”.
Cấp trên cùa Tô
Hoài nhận ra đã đầu tư nhầm chỗ. Nguyễn
Bính không ra đòn thẳng tay đánh Nhân Văn-Giai Phẩm, ngược còn bênh những văn nghệ sỹ bị nạn như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Quang Dũng,
Hoàng Cầm , Thụy An...
Trên tờ Trăm Hoa
số 4, ông đăng bài ký tên Lưu Thủy, có
đoạn : “ Biết bao nhiêu bài thơ, chưa
nói đến văn, dở òm và nhạt phèo của Xuân Diện, của Nguyễn Đình Thi, của Huy Cận
...vẫn được in một cách vô tội vạ. Trong khi một bông hoa của chị Thụy An bị
vùi dập. Vì cái tinh thần bè phái đương nghự trị trong đầu một số ông phụ trách
báo , sách văn nghệ và văn hóa đại chúng, và trên hết là cái tinh thần bè phái
ở ngay trong cơ quan lãnh đạo Hội. Tất cả rắc rối ( hạn chế tài năng của cá
nhân, kìm hãm tiến triển của phong trào, thiếu đoàn kết, gây phản ứng) do đó mà
ra cả”
Về chính trị,
Nguyễn Bính muốn : “ Đem những lời trung
thực cùa ta để xây dựng chế đội ngày thêm tươi đẹp, chúng ta sẽ không bị câm
,và nhất định không bao giờ để phải bị câm!” Ông viết trên Trăm Hoa số 5 : “
Phải nói rằng một trong những nguyên nhân mắc phải sai lầm là mũi nhọn chuyên
chính đã chĩa vào ta và bạn. Máu và nước mắt đã chảy dài trong cuộc chiến tranh
cách mạng. Máu và nước mắt của một số người lại chảy trong cải cách ruộng đất.
Nỗi đau khổ của một số đồng bào nông dân , của một số đảng viên bị xử trí oan
không phải là không chính đáng”
Tưởng có thể
biến Nguyễn Bính thành một lính xung kích, nào ngờ Nguyễn Bính ngang ngạnh như
thế. Cấp trên của Tô Hoài quyết định ra đòn với Nguyễn Bính. Cái tội phỉ báng
Tố Hữu, Xuân Diệu được cộng vào. Người
chấm dứt sáng kiến tài trợ tiền, giấy cho Trăm Hoa và đày Nguyễn Bính về
Nam Hà.
Một buổi
tối,Nguyễn Bính cùng anh là Trúc Đường đặt một mâm rượu ở nhà hàng Lục Quốc ,
mời Tô Hoài tới dự. Nguyễn Bính nâng ly rượi lên, mắt ầng ậng nước, nói với Tô
Hoài : “Hôm nay ăn cỗ đám ma Trăm Hoa!” ( Theo Cát bụi chân ai)
Nguyễn Bính về
Ty văn hóa Nam Hà, nơi nhà văn đồng hương Chu Văn, làm Trường ty.
Năm 1986, khi
viết lời bạt cho Tuyển tập Nguyễn Bính ,
Chu Văn ca ngợi nhà thơ đồng hương như
một bậc thiên tài, và ông như cố nhân
của Nguyễn Bính. Nhưng trong “ Chiều chiều” của Tô Hoài, thì Nguyễn Bính về Ty
văn hóa Nam Hà trước sau chỉ là một nhân
viên ngoài biên chế”. Trưởng ty Chu văn
được giao đặc trách “ chăm sóc” Nguyễn Bính thì
: “ Những ai đã công tác cùng Nguyễn Bính ở Ty văn hóa Nam Định có thể
biết Chu Văn đã quần Nguyễn Bính như thế nào”.(nguồn Chiều chiều, trang 228)
Ông Chu Văn cư xử thế nảo chả cần phải nói hết ra, nhưng về
cái chết của nhà thơ Nguyễn Bính, ông
bảo có điềm báo trước. Ông kể : “ Cuối năm 1965 , nhằm kỷ niệm 200 năm
ngày sinh Nguyễn Du, người mà Nguyễn Bính vốn coi như “ Tổ sư”của mình trong
lĩnh vực làm thơ, báo Xuân Bính Ngọ ra số đặc biệt với nhiều bài thơ về Nguyễn
Du.
Hôm duyệt bài bào
Tết, Nguyễn Bính cười thật tươi, tay cầm một xấp giấy mỏng, khoe : “ Chỉ trong
một đêm , tôi đã viết được một bài tập Kiều, vịnh cụ Tiên Điền”. Nguyễn Bính
không cho ai xem mà chờ đến lúc đông đủ anh em mới trịnh trọng giở những trang
giấy được viết thật công phu, chữ đẹp như xếp, rồi hắng giọng ngân nga: “Kính
tặng cụ Nguyễn Du và Truyện Kiều”:
Cào thơm
lần giở trước đèn
Là nhiều vàng đá,
phải tìm trăng hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt
bút gọi là để sau
Khen tài nhả
ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy
biết bao nhiêu tình
Mấy lời ký chú đinh ninh
Rằng tài nên trọng
mà tình nên thương
Khen rằng giá
đáng Trịnh Đường
Thì treo giải nhất
, chi nhường cho ai
Gẫm câu người ấy, báu này
Nghe ra ngậm đắng
nuốt cay thế nào
Nặng vì chút
nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ
trông vào cũng hay
Thương vui
bởi tại lòng này
Tan sương đầu
ngõ, vén mây cuối trời
Lòng thơ lai
láng bồi hồi
Tưởng người nên
lại thấy người về đây...
Cả hội đồng
duyệt bài số báo Tết hôm ấy , cùng lặng đi. Một bài tập Kiều thật hay. Nhưng
nghe ra ... đây tuy đề tặng cụ Tiên Điền mà cứ như tâm sự cùa Nguyễn Bính ,
tổng kết cái cuộc đời thơ tài hoa long đong lận đận của mình”
Thực ra Nguyễn
Bính chỉ là một nhân viên ngoài biến chế làm gì
được nằm trong hội đồng duyệt báo Tết mà cười với chả tươi. Khi ông Chu
Văn và những người lãnh đạo duyệt báo , thì Nguyễn Bính đang bệnh nặng, nằm co
ro một mình trong căn phòng trống gió lùa hun hút. Ông cố gắng đạp xe về quê
Đại Hoàng ăn tết với vợ con nhưng không nổi, phải rẽ vào nhà một người bạn ở Lý
nhân, và chết ở đó.
Nhà văn Vũ Bão
kể về cái chết đau lòng của nhà thơ Nguyễn Bính như sau: “ Khi làm báo Hà Nam , tôi và Nguyễn Bính có một người bạn chung
là Đỗ Văn Hứa, người thôn Mạc Hạ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam . Anh này
làm nghề bốc thuốc đông y nhưng cũng viết báo, làm thơ lấy bút hiệu là Tân
Thanh. Đặc biệt anh rất yêu thơ Nguyễn Bính nên mỗi lần về Ty văn hóa Hà Nam
họp , Tân Thanh lại khẩn khoản mời
Nguyễn Bính về nhà mình chơi. Được cái cô Sang - vợ Tân Thanh-là người rất mến
khách, mỗi lần chúng tôi về nhà, cô tiếp đón niềm nở.
Mùng 4 Tết, tôi
mới được nghỉ, đạp xe đi thăm đây đó. Mười giờ sáng tôi tới nhà Tân Thanh, ở
Mạc Hạ. Vừa nhìn thấy tôi dắt xe vào trong sân, cô Sang đã nói ngay: “ Bác Vũ
ơi, bác Bính mất rồi! Tôi đứng sững lại: “Ai nói với cô?” Cô Sang nói tiếp:
“Tuần trước , bác ấy đạp xe về nhà em. Trời trở gió, vừa vào tới nhà, bác ấy đã
bảo nhà em đưa bác ấy đi bệnh viện. Thời may, bệnh viện huyện lại sơ tán ngay ở
xã em. Bác ấy bị thổ ra máu. Nằm ở bệnh viện huyện ba ngày, sức khỏe hơi đỡ,
lại về nhà em lấy xe đạp tính về Đại Hoàng ăn tết với vợ con. Hôm ấy đã là 29
Tết rồi. Thấy bác còn mệt, chúng em sợ bác không đủ sức về Đại Hoàng nên cố giữ
bác lại ăn tết cùng chúng em. Sáng 30, nhà em sang chỗ hàng xóm chia thịt lợn mang về cái đùi và một ít lòng,
tiết canh để hai anh em ăn cơm. Bác Bính bảo nhà em cứ ở nhà ăn với bác bát cơm
cái đã. Nể bác nhà em ngồi nán lại ăn cơm. Bác Bính có thói quen ăn xong là đi
rửa tay. Bác vắt khăn lên vai, lò dò bước xuống cầu ao. Bỗng chúng em nghe
tiếng bác gọi “ Tân Thanh”. Nhà em chạy vội ra sân, thấy bác Bính đang gục
xuống gốc mít, cạnh hố vôi. Nhà em xốc bác lên, tựa người bác vào ngực mình.
Miệng bác đầy máu, bác thổ ra huyết. Nhà em chạy đi gọi anh Huê và anh Đáp, nhờ
họ cáng bác lên bệnh viện. Y sỹ khám cho bác ấy
xong mới cho nhà em biết bác ấy mất rồi. Nhà em ra Bưu điện gọi điện bào
tin cho bác Trúc Đường và Ty văn hoa”
Đó là 30 Tết
Bính Ngọ, nhằm ngày 9-2-1967, Nguyễn Bính vừa tròn 49 tuổi.
Nguyễn Bính làm
thơ từ lúc thiếu thời, và trải hơn ba mươi năm theo nghiệp thơ. Ông sống hết
mình cho thi ca, và thơ ông là âm thanh chau chuốt nhất được chắt lọc từ mảnh
đất màu mỡ thấm đẫm chất dân ca vừa giản dị vừa đằm thắm lại vô cùng cao sang
của làng quê Việt Nam .
Ông yêu tự do như một chàng lãng tử, tâm hồn
luôn bị ám ảnh vì lỡ bước sang ngang, số phận đen bạc như hai tờ báo Trăm Hoa sớm nở tối
tàn mà nhà thơ Xuân Sách đã vẽ thành
chân dung ông: “Hai lần lỡ bước sang ngang. Thương con bướm đậu trên dàn mồng
tơi. Trăm hoa thân rã cánh rời. Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ!”.
Ôi, “Trăm hoa
thân rã cánh ròi” – thăng trầm, biến trải, cám cảnh! Nhớ tới Nguyễn Bính năm xưa với ước vọng làm
báo mà đành chịu thân phận èo uột của tờ Trăm Hoa (khó mà đua nở) với “hai lần
lỡ bước sang ngang”. Lại nghĩ, làm báo thời nay sướng thật; nhà nước bao cấp
cho cả nghìn tờ báo, đài phát thanh, truyền hình bằng nguồn “kinh phí khủng”,
sống khỏe. Nếu bị lỗ ư? - Có ngay bù lỗ! Khó khăn gì ư? - Có Đảng, nhà nước lo!
Viết gì ư? - Có chỉ đạo sát sao hàng tuần, hàng ngày, cả nội dung từng ván đề,
vụ việc…
Chỉ hiềm một
nỗi, với công nghệ tinh xảo, hiện đại của thời @, bùng nổ thông tin toàn cầu,
thế giới phẳng, nhưng các trang mạng xã hội vẫn không được quyền thoải mái hòa
nhập cộng đồng, chịu cảnh phập phù đi tìm con đường “tự do ngôn luận”, quyền
truy cập, trao đổi thông tin. Xem ra, nay không chỉ Trăm Hoa, mà nhờ sóng trời
(mạng Internet) đã khai thông tầm giao lưu cho cả hàng Chục Triệu Hoa blog đang
nở, thế mà không hiểu vì những lý do gì, người ta vẫn coi đó là điều lo ngại,
coi như ‘thế lực thù địch’...Đã là thời đại nào mà người ta lại cảnh giác và sợ Internet đến thế? Họ
còn, tìm mọi cách ‘xịt thuốc diệt cỏ’ vào những vườn hoa mạng xã hội đầy sắc
hương mà chẳng càn đếm xỉa đến sự phát triển khoa học công nghệ cao, chẳng cần
biết đến dân chủ, nhân quyền (!?). Chẳng
lẽ thân phận mạng xã hội nay cũng là “lỡ bước sang ngang”?
Dịp lế Quốc
Khánh, lại nhớ câu trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo chế
độ thực dân Pháp: “Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân…”. Có
gì đau nhói trong lòng!
2-9-2013
M.D
........./.