DỰ ÁN ĐÔ THỊ DU LỊCH CẦN GIỜ





BA VẤN ĐỀ TRONG DỰ ÁN ĐÔ THỊ DU LỊCH CẦN GIỜ
Nguyễn Ngọc Trân


*
THD: Bài của GS Nguyễn Ngọc Trân, đã được đăng trên báo Đất Việt, nhưng chỉ vài giờ sau là bị gỡ xuống, không còn một dấu vết nào!!!
GS Trần Hữu Dũng
*


video RẤT nên xem :

https://www.youtube.com/watch?v=kZekpLRDzHQ

*
Tóm tắt

Rừng ngập mặn Cần giờ, bị tàn phá khốc liệt trước năm 1975 đã được tái sinh trong những năm 1980 và được Tổ chức UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 21.01.2000 [1]. Tình trang sạt lở bờ sông và xói lở bờ biển ở đồng bằng sông Cửu Long xảy ra ngày càng nhiều và trầm trọng do cán cân tràm tích âm. Dự án “Khu đô thị du lịch biển Cần Giờ quy mô 2870 hecta” xây dựng trên bãi triều huyện Cần Giờ sẽ tác động như thế nào đến Khu dự trữ sinh quyễn và đến sạt và xói lở ở ĐBSCL? Đó là hai trong ba vấn đề cần được làm rõ trước khi Dự án được phép triển khai.

DỰ ÁN KHU ĐÔ THỊ DU LỊCH LẤN BIỂN CẦN GIỜ

Năm 2016 Công ty cổ phần Đô thị Du lịch Cần Giờ trình Ủy Ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Dự án “Khu đô thị du lịch biển Cần Giờ quy mô 2870 ha”. Dự án này trùm lên Dự án “Khu đô thị du lịch lấn biển Cần giờ” năm 2003 do Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn làm chủ đầu tư.

Phúc đáp tờ trình của UBND Thành phố, ngày 17.4.2017 Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc nghiên cứu điều chỉnh, bố sung quy hoạch ven biển tại xã Long Hòa và thị trấn Cần Thạnh, thuộc khu vực phía Nam của huyên Cần Giờ; UBND Tp Hồ Chí Minh cập nhật Dự án vào Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thành phố đến năm 2030, trình duyệt theo quy định.

Ngày 05.9.2018, Ủy ban nhân dân Tp Hồ Chí Minh duyệt Đồ án quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/5000 Khu đô thị du lịch biển Cần Giờ quy mô 2870 ha.
Ngày 28.01.2019, Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt nội dung báo cáo tác động môi trường của Dự án “Khu du lịch biển Cần Giờ, quy mô 2870 ha” do Công ty cổ phần Đô thị Du lịch Cần Giờ lập.

Dưới đây là những thông tin chính về
PHẠM VI VÀ QUY MÔ CỦA DỰ ÁN.
Tổng diện tích 2870 ha được xây dựng trên toàn bộ bãi triều Cần Giờ với một biển hồ nhân tạo rộng 872 ha. Quy mô dân số là 228.506 người và khoảng 8,887 triệu lượt người/năm khách du lịch.
Sẽ dẫn về Khu vực Dự án 100.000 m3 nước ngọt ngày đêm; sẽ có 5 cửa xả nước thải đã xử lý trực tiếp ra biển; sẽ san lấp với 122 triệu m3 cát; sẽ nạo vét 11 triệu m3 đất bãi triều để làm khu vực biển hồ nhân tạo; sẽ xây dựng 21 km kè bờ biển với 2,5 triệu m3 đá hộc các loại (lấy từ tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu).
Sẽ đưa về 1 triệu m3 cát trắng (lấy từ Bình Thuận) [2].

Hiện tại, Dự án đang chờ được cập nhật vào Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Tp HCM đến năm 2030, trình duyệt theo quy định, và chỉ khi được duyệt mới được phép triển khai.


BA VẤN ĐỀ CẦN LÀM RÕ TRƯỚC KHI DỰ ÁN ĐƯỢC PHÉP TRIỂN KHAI

Có nhiều vấn đề mà Dự án đặt ra. Chỉ xin nêu lên ba cần được làm rõ trước khi Dự án được phép triển khai.

1. Tên của Dự án là gì?
Trong khi trong hầu hết các văn bản tên của Dự án là “Khu đô thị du lịch biển Cần Giờ, quy mô 2870 ha” thì trong Quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tên của Dự án là “Khu du lịch biển Cần Giờ, quy mô 2870 ha”. Không có cụm từ “đô thị”. Tài liệu mà chủ đầu tư gửi ra để Bộ TNvMT xem xét phê duyệt mang tên Báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án “Khu du lịch biển Cần Giờ - Quy mô 2870 ha” [3].
Ai cũng biết cụm từ “đô thị” có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với chủ đầu tư của Dự án. Bỏ cụm từ “đô thị” trong tên của Dự án để rồi khi báo cáo ĐTM được phê duyệt, nội hàm “đô thị” lại hiện ra nguyên hình, như trong video clip giới thiệu tiếp thị Dự án. Tên gọi Dự án phải rõ ràng vì danh có chánh thì ngôn mới thuận.

2. Tác động của Dự án lên Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần giờ
Đánh giá tác động trong Báo cáo ĐTM quá sơ lược để có sức thuyết phục rằng “khu vực quy hoạch không làm giảm diện tích rừng ngập mặn và không tác động trực tiếp đến Khu dự trữ sinh quyển”.
Lý lẽ chủ đầu tư chủ đầu tư đưa ra là “khu vực quy hoạch nằm trong vùng chuyển tiếp của Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, khoảng cách từ khu vực thực hiện quy hoạch đến vùng lõi (vùng bảo tồn nghiêm ngặt) đạt trên 8,6 km; khoảng cách đến ranh khu vực vùng đệm cũng đạt trên 1,7 km.
Khu vực quy hoạch nằm hoàn toàn trong khu vực lấn biển, ngăn cách với khu dự trữ sinh quyển bởi khu vực thị trấn Cần Thạnh và xã Long Hòa”.
Cùng một lý lẽ khi dự án chỉ lấn biển 821 ha nằm gọn trong xã Long Hòa, cũng như khi Dự án mở ra 2870 ha dọc suốt cả 21 km bờ biển Cần Giờ, bởi lẽ “phù hợp với Quy chế quản lý Khu vực dự trữ sinh quyển RNM Cần Giờ ban hành tại Quyết định 05/2008/QĐ-UBND”.
Khoảng cách 8,6 km có ý nghĩa gì khi mà giữa khu vực dự án và vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển là một mạng lưới dày đặc sông rạch và khi triều lên, cho dù mùa gió Đông Bắc hay Tây Nam, chỉ 20 đến 30 phút là nước biển, và sau này có cả nước thải của Khu Dự án, từ Mũi Cần Thạnh đã đến khu lõi?
Chúng ta không quên triều ở đây là bán nhật và có biên độ trung bình khoảng 4 mét.
Chất lượng nước lan truyền vào Khu dự trữ sinh quyển sẽ ra sao khi Dự án tiến hành san lấp 122 triệu m3 cát, nạo vét 11 triệu m3 đất của bãi triều Cần Giờ để làm biển hồ nhân tạo? Tương tự, lượng nước thải mỗi ngày từ dự án, khoảng 80.000 đến 100.000 m3, hoặc ít nhất 1/5 số này, theo triều lên, nhất là khi triều cường, sẽ tác động đến Khu dự trữ sinh quyển ra sao?
Sự hiện diện tương lai của 228.506 cư dân và của 8,887 triệu lượt khách du lịch năm, sẽ tạo ra công ăn việc làm cho 25.000 người dân bản địa, nhưng tạo sức ép lên họ cũng sẽ không nhỏ. Liệu sẽ có bao nhiêu người di dời vào vùng đệm rồi sau đó vào vùng lõi để tìm kế sinh nhai vốn quen thuộc với họ? Mặt khác, số cư dân mới và số khách du lịch sẽ tác động ra sao đến các quần thể sinh vật của Khu dự trữ sinh quyển?

Trên đây chỉ là một số câu hỏi mà chủ đầu tư cần trả lời trước khi Dự án được phép triển khai chứ không phải như chủ đầu tư cam kết rằng “bằng kinh phí của mình, Công ty sẽ mời các đơn vị tư vấn nước ngoài, các chuyên gia trong nước và quốc tế tiếp tục đánh giá độc lập các ảnh hưởng của dự án đến Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, đến môi trường như biến đổi dòng chảy, môi trường nước biển, đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, ... và đưa ra các giải pháp nhằm giảm thiểu các tác động đó.”
Chủ đầu tư nhận thức khá rõ các tác động tiêu cực lên môi trường. Đã vậy, xin đừng triển khai khi chưa làm rõ tác động, xin đừng bắt xã hội, thế hệ này và các thế hệ mai sau, phải trả lãi cho phần mà nhà đầu tư vay từ Môi trường.

3. Khai thác cát ở các “mỏ cát” và hậu quả sạt lở ở ĐBSCL
Để có 122 triệu m3 cát san lấp cần cho Dự án, chủ đầu tư cho biết sẽ khai thác 85–90 triệu m3 từ các “mỏ cát” ở đồng bằng sông Cửu Long, dọc sông Tiền và sông Hậu, tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre. Cụ thể ở các “mõ” Tân An, Tân Châu, Vĩnh Xương, Tân Thuận và Cổ Chiên. (Hình 3).
Khai thác 90 triệu m3 cát sẽ tạo thêm nhiều hố sâu ở đồng bằng. Trong Hình 4, là vị trí các hố sâu trên sông Tiền và sông Hậu trích từ một tài liệu của Ủy hội Quốc tế sông Mekong năm 2013 [4].
Tình hình sạt lở ngày càng nhiều và càng nghiêm trọng hiện nay, chúng ta đều biết nguyên nhân. Lấy từ sông Tiền và sông Hậu khoảng 90 triệu m3 cát sẽ làm cho cán cân trầm tích càng thêm thâm hụt, tình trạng sạt lở bờ sông và xói lở bờ biển càng thêm trầm trọng.
Hậu quả sạt lở và xói lở là nhãn tiền. Liệu chủ đầu tư có dám cam kết rằng lấy đi 90 triệu m3 cát trong hai năm sẽ không làm tình hình sạt và xói lở ở đồng bằng sông Cửu Long trầm trọng thêm hay không?
Mọi việc đều có hai mặt Được và Mất, và ai được, ai phải trả giá. Làm sáng tỏ ba vấn đề nêu trên đây là cần thiết để Dự án được phép triển khai.

=========
TLTK:
1. Theo UNESCO, Khu dự trữ sinh quyển là “những khu vực hệ sinh thái bờ biển và trên cạn giúp thúc đẩy các giải pháp điều hòa việc bảo tồn sự đa dạng sinh học với việc sử dụng bền vững khu vực đó”.
2. Trích Quyết định phê duyệt ĐTM của Bộ Tài nguyên và Môi trường, số 220 ngày 28.01.2019, và từ video clip “Siêu dự án lấn biển Cần Giờ 2870 ha của Vingroup - Đầu tư siêu lợi nhuận” https://www.youtube.com/watch?v=kZekpLRDzHQ
3. Gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường kèm theo công văn 925/2018/CV-CTC và văn bản 06/2019/CV-CTC của Công ty cổ phần Đô thị Du lich Cần Giờ.
4. Atlas of deep pools in the Lower Mekong River and some of its tributaries, MRC Technical Paper N.31, August 2013.
---
N.N.T.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 5 năm 2019


.........../.

Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất


Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất 

_____________________
Ỷ Lan, Phóng viên RFA, Paris / 2015-04-27 



***


Danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời tại Saigon ngày 4 tháng giêng 1964, sau cuộc đấu tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng năm 63. Vì trước đó, Dụ số 10 của Pháp bó buộc phải hoạt động theo quy chế Hiệp hội.
Kể từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn áp Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bắt đầu theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, khiến Phật giáo miền Bắc bị tiêu vong. Nay đem thực hiện tại Miền Nam.
Cuối tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá Đạo đã có văn thư phản đối Chủ tịch Cách Mạng Lâm thời về việc đập phá các tượng Phật lộ thiên.
Nhiều hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v…, hàng chục nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại Cải tạo.

Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.

Tình trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục“. Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp GHPGVNTN.

Tình trạng đàn áp có chủ trương và chính sách này, không ai lên tiếng rõ hơn Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu. Năm Mậu Thân 68, ngài bị cộng sản bắt đưa lên rừng rồi đưa ra Hà Nội áp lực tuyên truyền cho chế độ, nhằm đánh lừa dư luận quốc tế là Phật giáo ủng hộ Bắc Việt. 

Thế nhưng, trở về lại miền Nam, ngài từ nhiệm tất cả các chức vụ mà Hà Nội gán cho, lại còn tố cáo đàn áp Phật giáo và thảm sát cố Hoà thượng Thích Thiện Minh. Sau đây là tiếng Ngài qua một băng thu âm, được đăng tải trên tạp chí Quê Mẹ tại Paris :
“Từ khi giải phóng đến nay, Phật giáo đồ chúng tôi bị bao nhiêu khổ đau tan tác. Đi bất cứ đâu, đạo khác thì chúng tôi không biết, chớ về gặp các nhà chùa Phật giáo, cán bộ, bộ đội phát biểu “Hòa bình Độc lập rồi, tu mà làm gì nữa? Tuân thủ thờ Cách mạng hơn là thờ Phật“.
“Bắt đầu từ đó, sự vận động, khủng bố không cho họ được làm lễ. Phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê Thuột, Biện Hồ, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Quảng Ngãi… Bộ đội cột giây lên kéo xuống, đập vỡ tan hết.
“Sau đây còn bắt các vị tu sĩ lấy lý do mấy ông Sư đó phản động theo CIA, theo Mỹ, theo Nguỵ. Rồi lần lượt bắt cho đến các vị lãnh đạo trong Viện Hoá Đạo nữa, Thượng toạ Huyền Quang, Thượng toạ Quảng Độ, rồi đến bắt Thượng toạ Thiện Minh nữa, để Thiện Minh chết nữa.
“Thiện Minh không có tội chi hết, thì tại sao chính phủ làm cái việc lạ lùng hết sức. Đi bắt tội người không có tội chi hết là Thiện Minh mà lại dung tha cho người có tội là cơ quan. Tôi thì không biết rõ luật quốc tế lắm. Nhưng tôi đoán chắc rằng, luật quốc tế không cho phép để cho người bị bắt chết trong trại giam. Mà đây Thiện Minh đã chết trong trại giam. Cơ quan nói Thiện Minh chết vì xuất huyết não. Tôi có thể kết luận, Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì bàn tay tội ác chính trong cơ quan tạo ra. Là bởi được tin Thiện Minh chết, Viện Hoá Đạo về liền, thấy các ông bỏ trong hòm mà liệm rồi, chỉ chừa cái mặt. Viện Hoá Đạo xin đem về chôn cất, các ông không cho.
“Tại sao vậy ? Đây thấy rõ ràng quá. Rõ ràng như hai với hai là bốn. Là trong người của Thiện Minh đầy cả thương tích. Muốn che đậy thương tích đó, muốn che đậy lấp liếm cái việc làm của mình, bằng cách bỏ trong hòm liệm đi. Bởi vì sợ người ta thấy những cái vết thương mà các ông đã đánh đập.
“Là một công dân, tôi không thể để cho cơ quan làm những việc bất chính như vậy. Tôi xin nhắc lại ba điều yêu cầu:
“Một là yêu cầu chánh phủ trả tự do cho tất cả các tu sĩ bị bắt giam cầm đã lâu mà không can án;
“Thứ hai là đưa cái chết của Thượng toạ Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết;
“Thứ ba phải chấm dứt tình trạng khủng bố các tín đồ ở các địa phương“.

Ngày 16-4-1977, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Thông báo kêu gọi Phật tử Saigon đấu tranh chống lại GHPGVNTN. Thông báo cho rằng, 
“trong giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phái Ấn Quang có nhiều người vốn có mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cọng sản” (…) “Số này đã thao túng Giáo hội âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước”. Thông báo còn hăm doạ ra tay đàn áp.
Hăm doạ biến thành sự thật, bảy vị lãnh đạo Viện Hoá Đạo bị bắt giam. Hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ bị giam 20 tháng, nhờ áp lực quốc tế mới được thả nhưng bị quản chế. Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết tại Trại thẩm vấn X4, đường Nguyễn Trãi, Saigon, như Hoà thượng Đôn Hậu tố giác.

Suốt 5 năm đàn áp, khủng bố, nhưng không thành công tiêu diệt GHPGVNTN. 

Năm 1981, nhà cầm quyền Cộng sản chuyển qua chiêu bài mới, gọi là “Thống nhất Phật giáo“, thành lập “Hội Phật giáo Việt Nam” tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, ngày 4-11để làm công cụ chính trị cho Đảng và Nhà nước. Ép buộc Tăng Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN phải gia nhập.

Ông Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân Vận chỉ thị cho ông Đỗ Trung Hiếu, cán bộ tôn giáo vận, thực hiện cuộc Thống nhất Phật giáo này. Ông giải thích cho ông Hiếu vì sao phải dẹp bỏ GHPGVNTN như sau :
“Quan trọng là Đảng không bao giờ lãnh đạo được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà ngược lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trở thành một tổ chức tôn giáo rộng lớn có đông đảo quần chúng, là một tổ chức có áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam”.
Năm 1994, hối hận việc làm sai lạc của mình, ông cho phát hành tập sách “Thống nhất Phật giáo” nói lên tất cả sự thật và tiết lộ :
“Cuộc thống nhất Phật giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng. (…) Nội dung hoạt động là do cúng bái chùa chiền, không có hoạt động gì liên quan tới quần chúng và xã hội. Hội Phật Giáo Việt Nam ở trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tuân thủ luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Từ trái sang phải: HT Thích Quảng Độ, Nhật Thường, Thích Nhật Ban, Đồng Ngọc, Thích Trí Lực, Thích Không Tánh tại TAND TPHCM tháng 8 năm 1995.

Photo courtesy of lehienduc.blogspot.com


Kể từ đó, GHPGVNTN bị đưa ra ngoài vòng pháp luật, dù Nhà nước không có văn kiện nào chính thức giải thể. Một cuộc đàn áp mới sắp khai trương.

Vài tháng sau Giáo hội Phật giáo nhà nước ra đời tại Hà Nội, ngày 24-2-1982, Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định trục xuất hai Hoà thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ về quản chế tại quê quán Quảng Ngãi và Thái Bình, không qua sự xét xử của toà án. Ngày 7-7 cùng năm, cưỡng chiếm chùa Ấn Quang là trụ sở của GHPGVNTN. Toàn bộ tư liệu, hồ sơ của Viện Hoá Đạo bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.

Năm 1991, Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ, Huế. Nhà nước muốn lợi dụng tang lễ này tuyên truyền chính trị cho Đảng. Nhưng Di chúc Ngài ngăn cấm không tổ chức rầm rộ, không đọc điếu văn, ca tụng, v.v… Nên 50 Tăng Ni tuyệt thực phản đối tại chùa Linh Mụ. Có vị đòi tự thiêu. Ngài để lại khuôn dấu Giáo hội và trao quyền cho hai Hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN để phục hồi quyền pháp lý cho Giáo hội. Mặc dù bị công an phong toả, cấm đoán, tại lễ tang, Hoà thượng Huyền Quang dõng dạc tuyên bố trước Linh đài quyết tâm thực hiện Di chúc giao phó :
“Pháp lý là cái gì ? Giấy tờ chỉ được viết ra cho một tổ chức tân lập, còn Giáo hội ta đã có mặt trên dải đất này 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý. Trần đã chấp nhận Phật giáo.
“Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm truyền đạo trên dải đất Việt Nam này. Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng và thành thị, nông thôn, hải đảo. Đó là cơ sở vững chắc, rộng rãi muôn năm của Giáo hội.
“Như vậy Pháp lý có thể cho ra và có thể thu lại. Vậy cho nên đừng đặt vấn đề pháp lý của thời đại, mà phải đặt lịch sử truyền đạo và sự chấp nhận của dân chúng Phật tử“.

Trước sự bùng dậy của khối Phật giáo đồ sau tang lễ, tài liệu Tuyệt Mật của Bộ Nội vụ viết ngày 18-8-1992 chỉ thị 5 biện pháp đấu tranh chống khối Phật giáo Thống Nhất, đặc biệt là phân hoá cao hàng ngũ giáo sĩ ; “cắt đứt chân tay” với số cực đoan chống đối ; và thâm nhập đặc tình trong Tăng tín đồ Phật giáo.
Vì thực hiện và phổ biến Di chúc Ngài Đôn Hậu, chư Tăng chùa Linh Mụ bị đàn áp dữ dội, đưa tới cuộc biểu tình bốn mươi nghìn Phật tử Huế xuống đường ngày 24-5-1993 đòi hỏi nhân quyền và tự do tôn giáo. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất chưa hề có dưới chế độ Cộng sản. Tại Hội nghị “Diễn biến Hoà bình” ở Hải phòng ngày 26.6 cùng năm, Tướng Đặng Vũ Hiệp đánh giá cuộc biểu tình của Phật tử Huế có “nguy cơ mất nước“.
Sự kiện hi hữu xẩy ra là ngày 2-4-2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Hoà thượng Thích Huyền Quang, nhân dịp ngài ra Hà Nội giải phẫu khối u ở mặt. Một thủ tướng tiếp một tù nhân ! Thủ tướng xin Hòa thượng hỉ xả cho chuyện đã qua, vì cán bộ cấp địa phương làm sai. Nhiều nhà quan sát tưởng rằng vấn đề Phật giáo được lắng yên.

Thế nhưng, sau Đại hội Phật giáo kỳ VIII do Hoà thượng Huyền Quang triệu tập tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, ngày 1-10-2003, để bổ sung nhân sự vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo, thì chuyến xe chở 10 vị giáo phẩm về lại Saigon bị chận bắt tại Lương Sơn hôm 8-10, trong số có hai ngài Huyền Quang và Quảng Độ. Tất cả đều bị bắt đi “làm việc” và ra khẩu lệnh quản chế.

Từ đó đến nay Giáo hội luôn bị đàn áp, sách nhiễu thường trực. Mọi hoạt động của 20 Ban Đại diện Giáo hội tại các tỉnh thành đều bị ngăn cấm. Chùa Giác Minh của Hoà thượng Thanh Quang ở Đà Nẵng bị phong toả thường trực, các Đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay Tết bị ngăn cấm tổ chức.

Thế nhưng Giáo hội không ngừng lên tiếng cho những vấn nạn xã hội hay đất nước. Từ nơi quản chế Quảng Ngãi, ngày 20-11-1993, Hoà thượng Thích Huyền Quang ra Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn, yêu sách bỏ điều 4 trên Hiến Pháp và bầu cử lại Quốc hội dưới sự giám sát của LHQ với sự tham gia của tất cả các đảng phái quốc gia.

Đầu năm 1994, Hoà thượng Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu trợ nạn bão lụt khủng khiếp ở đồng bằng sông Cửu Long. Bị kết án 5 năm tù, giam tại nhà tù Ba Sao. Được ân xá năm 1998, nhưng vẫn còn quản chế tại Thanh Minh Thiền Viện, Saigon. Ngài tuyên bố : “Tôi đi từ nhà tù nhỏ vào nhà tù lớn”.

Năm 2001 ngài công bố “Lời kêu gọi cho Dân chủ” với giải pháp 8 điểm thực hiện, mà ngài xem như giải pháp duy nhất cứu nguy dân tộc.
Ngày 17-5-2007, Hoà thượng Quảng Độ đến uỷ lạo và tiếp tế thực phẩm thuốc men cho Dân oan khiếu kiện trước tiền đình Quốc hội II ở Saigon. Việc làm bị báo chí truyền thông nhà nước tố cáo, hăm doạ trong vòng 3 tháng. Ngài cũng nhiều lần lên tiếng tố cáo về việc Trung quốc xâm lấn lãnh thổ và biển đảo, nạn bô xít Tây nguyên nơi Trung quốc nắm yết hầu quân sự, chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa, cho đến gần đây, năm 2014, biến cố giàn khoan Hải dương 981.

Nhiều vị Đại sứ các nước như Hoa Kỳ, Na Uy, Đức, Anh, Pháp… vẫn thường xuyên đến vấn an, trao đổi với Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ. Liên tiếp nhiều năm, ngài được đề cử ứng viên Giải Nobel Hoà bình. Năm 2003, ngài và ngài Huyền Quang được trao Giải Nhân quyền của Tiệp dưới sự chủ trì của cựu Tổng thống Vaclav Havel, năm 2006 ngài được Giải Nhân quyền Quốc tế Rafto của Vương quốc Na Uy.
Nhờ sự lưu tâm quốc tế này mà ngài và hàng giáo phẩm Giáo hội không bị khủng bố, bắt giam tuỳ tiện như những năm sau 30 tháng Tư 75.
Ngài xác nhận lập trường Giáo hội suốt 40 năm qua không hề thay đổi như sau:
“Chừng nào mà chế độ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam còn, thì Giáo hội không được sinh hoạt bình thường đâu.
“Họ dùng đủ cách để mà xoá sổ, xoá sạch cái danh nghĩa của Giao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trên đất nước Việt Nam. Mà chưa hết đâu, còn nhiều. Vì thế cho nên cứ sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để đón nhận, để đương đầu.
“Cho nên trước khi tiễn đưa Đức Tăng Thống đến nơi an nghỉ cuối cùng, thì chúng tôi đã nói rồi : Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đi của Ngài.
“Còn rất nhiều khó khăn, còn rất nhiều chông gai, nhưng sẵn sàng vượt qua. Còn hơi thở thì vẫn cứ tiếp tục. Đó là cái chí nguyện của Giáo hội”.


......./.

Tướng Võ Nguyên Giáp, như tôi từng biết



Tướng Võ Nguyên Giáp, như tôi từng biết


BÙI TÍN





(trích..)

[.....]
việc đánh giá tướng Giáp còn là một vấn đề tranh cãi, tranh cãi quyết liệt, kéo dài, với những chính kiến khác nhau, xa nhau, trái ngược hẳn nhau. Đây là điều không có gì lạ. Cho nên một đánh giá thống nhất về tướng Giáp là điều khó xảy ra, là hoàn toàn ảo tưởng. Qua bài viết này, tôi giữ thái độ khách quan công bằng, cũng là tưởng niệm khi ông mới đi xa.
[.....]
Ông là người ưa nghe hơn là nói, thường kín đáo, không cởi mở, ít bạn tâm giao; ông cũng không hút thuốc, không uống rượu, không uống cà phê, chỉ uống nước trà pha rất loãng, không đánh bài tulơkhơ để giải trí như các ông tướng khác. Một thời khi bị xét nét về cái gọi là vụ «án xét lại chống đảng» (1966-1967) ông giải tỏa tinh thần bằng cách học đánh đàn dương cầm, mới chơi được vài bài phổ thông, chưa chơi được bài cổ điển như Dòng sông Danube hay Phiên chợ Ba Tư.

Công danh và những điều hạn chế
Về tài năng, ông Giáp quả có tài, mới đứng vững trên vị trí chỉ huy cao nhất của Quân đội Nhân Dân từ 1946 cho đến 1982, nghĩa là suốt 36 năm, qua 2 cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt. Tất nhiên trong cơ chế lãnh đạo tập thể, còn có Bộ Chính trị, có Đảng ủy Quân sự Trung ương, có các tướng lãnh và sỹ quan giúp việc dưới quyền, lại còn có cố vấn quân sự Trung Quốc, Liên Xô và vài nước khác, nên những chủ trương chiến lược, chiến dịch thường được bàn bạc chung.
Như khi chủ trương mở chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu tướng Giáp đề xuất đánh vào thị xã Cao Bằng trước, nhưng các cố vấn Trung Quốc do tướng Trần Canh cầm đầu đề nghị đánh theo kiểu «công điểm diệt viện», trước hết đánh vào Đông Khê trên đường số 4, ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, tiêu diệt cả binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút chạy và binh đoàn Lepage từ Lạng Sơn lên đón, đều bị tiêu diệt hay bắt sống ở ngoài công sự, khi hành quân trong rừng; kết quả là giải phóng luôn cả Cao Bằng, Lạng Sơn và một vùng biên giới rộng lớn, thu rất nhiều vũ khí, bắt nhiều tù binh. Biên giới Việt - Trung rộng mở là chuyển biến chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho những chến thắng sau này.
Về chiến địch Điện Biên Phủ, có thể nói chủ trương chiến dịch mang đậm tài năng chỉ huy của tướng Giáp.
Năm 1989, nhân kỷ niệm 35 năm chiến dịch này, ông đã kể lại cho tôi nghe diễn biến cụ thể của chiến dịch, có ghi âm, được nhà văn Hữu Mai cùng dự ghi lại, thành bài hồi ký «Quyết định khó khăn nhất» đăng trên tuần báo Nhân dân Chủ nhật. Khi quân Pháp vừa nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên hồi cuối tháng 11-1953, Bộ Tổng tham mưu đã phác họa ngay kế hoạch bao vây và tấn công theo phương châm «đánh nhanh giải quyết nhanh» (khoái tả khoái diệt), theo học thuyết quân sự của Lâm Bưu khi địch mới lâm thời phòng ngự, chưa có hệ thống phong thủ vững chắc. Tổng cố vấn Vi Quốc Thanh và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tán thành phương châm này, theo kiểu ồ ạt, thường gọi là «biển người».
Đầu tháng 1-1954, tướng Giáp lên đến mặt trận, vòng vây được xiết dần, pháo lớn được kéo vào đặt trên sườn núi, được ngụy trang kỹ, với nhiều ụ pháo nghi binh, dự định khai hỏa vào lúc 18 giờ ngảy 26-1, dự tính sau 2 đêm 1 ngày sẽ diệt xong cả tập đoàn cứ điểm.
Nhưng cả đêm 25-1, tướng Giáp thao thức trăn trở về khả năng chiến thắng. Trưa 26-1 ông họp đảng ủy mặt trận cùng 3 tướng: Hoàng Văn Thái,Tổng tham mưu trưởng kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận; Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Mặt trận; Đặng Kim Giang, Phó chủ nhiệm hậu cần kiêm Chủ nhiệm hậu cần Mặt trận.
Sau khi nêu rõ tuyến phòng thủ đã trở nên kiên cố của quân Pháp, tướng Giáp đưa ra ý kiến ngừng cuộc tiến công, rút pháo ra phía sau, chuẩn bị lại theo phương châm «đánh chắc tiến chắc», nghĩa là: đánh dũi theo đường hào bao vây chia cắt, diệt từng cứ điểm, dùng chiếc xẻng cán ngắn làm công cụ tiến công chính. Cả 3 tướng Thái, Liêm, Giang đều sững sờ vì bị bất ngờ, muốn giữ nguyên phương châm cũ, vì bộ đội đã được động viên cao, chỉ chờ lệnh là xông tới, nay đình lại là như dội nước lạnh, sau này động viên trở lại rất khó. Đã xế chiều, tranh luận còn gay go, tướng Giáp hỏi lại rằng có ai tin là sẽ chắc thắng trăm phần trăm, theo phương châm cũ không, thì cả 3 tướng nói trên đều không trả lời được.
Ông dùng quyền bí thư đảng uỷ mặt trận, quyền tư lệnh chiến dịch kết thúc cuộc họp, dùng điện thoại ra lệnh trực tiếp cho các tư lệnh dưới quyền giữ vững quyết tâm diệt địch nhưng đình chỉ tiến công, kéo pháo ra, chấp hành triệt để, vì tình hình đã thay đổi, địch đã phòng thủ vững chắc, cần thay phương châm tác chiến sang «đánh chắc tiến chắc», ai còn thắc mắc sẽ giải thích sau.
Việc thay đổi phương châm, rút pháo ra, chuẩn bị thêm gần 50 ngày đêm, để đêm 10-3 mở cuộc tiến công vào cứ điểm Him Lam, Độc Lập cho đến chiều 7 tháng 5-1954 toàn thắng, cũng qua hơn 50 ngày đêm chiến đấu, được tướng Giáp coi là «Quyết định khó khăn nhất» trong đời ông.
Cần công bằng công nhận đây là biểu hiện tài chỉ huy mang dấu ấn riêng của ông. Như ông kể, Đại tá Nguyễn Hiếu ở Sở chỉ huy chiến dịch và Đại tá Cục phó Quân báo Cao Pha đã góp phần của mình, sớm tán đồng phương châm «đánh chắc tiến chắc» do ông đề ra. Về sau, nhiều sỹ quan công nhận rằng không thay phương châm, cứ liều húc vào một hệ thống phòng thủ vững chắc như tướng Pháp Navare và Cogny mong muốn thì 4 sư đoàn tiến công - vốn liếng quân sự của cuộc kháng chiến - sẽ bị tổn thất nặng nề ra sao, và diễn biến của cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ khác hẳn. Các cố vấn quân sự Trung Quốc đều bất ngờ khi tướng Giáp báo tin thay đổi phương châm và sau khi nghe giải thích họ cũng tỏ ra tán thành.
Sau chiến thắng lớn như trên, các nhà bình luận quân sự phương Tây thường chỉ ra phía kháng chiến đã chịu những tổn thất khủng khiếp, gấp 3 hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả cho chiến thắng là quá lớn, lớn đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên tuấn tú, có lý tưởng, chất lượng cao của dân tộc.

Đây là sự thật.
Hồi tháng 4-1996, trong cuộc hội thảo ở trụ sở Quốc Hội Hoa kỳ, tướng Westmoreland nói với tôi rằng: «Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng phải nói thật là nếu như tướng Giáp là một viên tướng Hoa kỳ thì ông đã bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc hội chúng tôi, xã hội chúng tôi không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội mình cao đến vậy».
Tôi nghĩ nền độc lập của đất nước, quyền sống tự do của nhân dân là vô giá, dù cho phải trả giá cao, nhưng lãnh đạo đảng Cộng sản đã không quan tâm thật sự đến tự do của nhân dân, chỉ quan tâm trước hết đến quyền lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của đảng, do đó mà vô vàn hy sinh của các liệt sỹ cuối cùng đã trở nên phũ phàng, mỉa mai, không được đáp đền một cách xứng đáng. Đây là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân.
Ông mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh lùng.

Tôi đã gửi 2 lá thư cho ông (năm 1992 và 1996), nhắc ông rằng quân hàm đại tướng 4 sao của ông được mạ bằng xương máu của hàng vạn vạn chiến binh, rằng «nhất tướng công thành vạn cốt khô», mong ông hãy tham gia, ủng hộ phong trào đổi mới theo hướng dân chủ hóa thật sự đất nước; rằng ông chỉ cần ghé thăm anh Hoàng Minh Chính đang bị chính quyền đối xử rất tồi tệ, hoặc nhắn anh Đại tá Phạm Quế Dương mới ra khỏi nhà giam đến hỏi chuyện, cả 2 đều là sỹ quan từng dưới quyền trực tiếp của ông, ông vẫn làm ngơ, không động lòng. Đây là điểm yếu về ý chí, công tâm, nhân cách.
Nhiều người nhắc đến lá thư tháng 1-2004 của tướng Giáp gửi lãnh đạo đảng CS yêu cầu giải quyết «vụ án siêu nghiêm trọng» liên quan đến Tổng cục II, làm rõ vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4, và sau này là 3 lá thư của ông hồi 2008-2009 về yêu cầu đình chỉ việc khai thác bauxite trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.
Đây là những việc làm có ý nghĩa tích cực, nhưng lá thư thứ nhất quá chậm trễ, vì các vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4 đều xảy ra từ hồi 1991 - 1993 cũng như vụ dựng lên Tổng cục II từ Cục 2 Quân báo đến lúc đó cũng đã được mười năm. Ông Giáp phải chờ đến năm 2004 - năm kỷ niệm nửa thế kỷ Chiến thắng Điện Biên Phủ - mới lên tiếng. Mà nội dung lên tiếng xem kỹ ra là nặng về thanh minh cho riêng cá nhân mình, như ông bị Năm Châu, Sáu Sứ dựng lên tài liệu để vu cáo là ông có âm mưu đảo chính, hay vụ T4 là do Tổng cục II bịa ra tài liệu vu cáo ông và nhiều nhân vật khác có quan hệ với CIA của Hoa kỳ. Nói tóm lại ông chỉ trước hết nhằm bảo vệ thanh danh của cá nhân mình, cố chăm nom cho cái bộ mã của người hùng Điện Biên không bị hoen ố, cho đến khi hơn trăm tuổi.
Thái độ của ông đối với vụ khai thác bauxite cũng có phần yếu ớt, buông xuôi, so với những lá thư mạnh mẽ, lặp đi lặp lại của các tướng Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và một số sỹ quan cấp cao khác.
Dũng khí là đức tính hàng đầu của một danh tướng, nên vào năm 1984, khi ông Lê Duẩn đến nói chuyện rất hẹp với cán bộ lãnh đạo báo Nhân Dân, ông kể rằng hồi 1968, bộ trưởng quốc phòng «nhát như thỏ đế», tránh mặt ra nước ngoài. Sự thật kế hoạch quân sự Mậu Thân 1968 là do các ông Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đề xuất, khởi thảo và chỉ đạo thực hiện. Khi chiến sự bùng nổ Tết Mậu Thân, ông Giáp đang dưỡng bệnh 2 tháng ở Hungary sau khi mổ cắt túi mật ở đó. Thật ra ông không tán thành tham vọng tổng tiến công và nổi dậy, ông chỉ có ý thực hiện tập kích chiến lược, đánh rồi rút bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Ý ông đúng, nhưng không cản nổi.
Ở Bộ Quốc phòng và Tổng tham mưu, các sỹ quan đều biết rằng suốt trong 30 năm, tướng Giáp rất ít khi ra mặt trận. Ngay ở Điện Biên Phủ ông gần như chỉ ở trong hang đá Mường Phăng, ngoài tầm pháo địch, suốt hơn 4 tháng trời, không ra gần hay sát nơi chiến trận. Sau khi chiến dịch toàn thắng ông mới ra duyệt binh tại chiến trường đã im tiếng súng và tìm hiểu những di tích của các trận đánh. Trước đó, các chiến dịch lớn Trung Du, Hòa Bình, Thượng Lào … ông cũng ở trên Việt Bắc, chỉ huy từ rất xa.
Từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam (1959 - 1975), ông không hề đặt chân lên chiến trường miền Nam (trừ 2 ngày tháp tùng ông Fidel Castro trên một đoạn ngắn thăm đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Cam Lộ - Quảng Trị, khi sắp kết thúc chíến tranh.).
Trong khi đó các tướng Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần Độ, Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê … đều ở chiến trường miền Nam vài năm. Do đó trong cuộc chiến tranh ở miền Nam, rút ra được những kinh nghiệm nóng hổi, thiết thực và bổ ích nhất, tướng Giáp đóng góp không có gì đáng kể, so với một loạt bài tổng kết lớn của tướng Nguyễn Chí Thanh (ký tên Trường Sơn), một số bài báo của tướng Trần Độ (ký tên Cửu Long) cũng như một số tài liệu tổng kết cho Học viện quân sự cấp cao của các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo và Nguyễn Hữu An …mà cán bộ học viện thường gọi là «Binh thư mới» của Quân đội Nhân dân.
Một nhược điểm của tướng Giáp là văn phong, khẩu khí của ông, nếu không thể nói là yếu kém thì có thể nói là không có gì nổi bật.
Ông mất đi, để lại hàng chục đầu sách, hàng trăm luận văn, bản báo cáo, hàng chục hồi ký (phần lớn do nhà văn quân đội Hữu Mai ghi lại), rất nhiều bài trả lời phỏng vấn trong nước và nước ngoài. Có cuốn sách nào hay, những ý tưởng quân sự nào đặc sắc của cá nhân ông, để lại cho hậu thế hay không? Điều này rất khó nói. Tôi từng dự nhiều buổi nói chuyện của ông tại Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, tại Học viện Quân sự cấp cao, ở trường Sỹ quan Lục quân, ở nhiều Quân khu, có thể nói ông không có năng khiếu truyền đạt, thông tin một cách bổ ích, hấp dẫn, rất thiếu những hình ảnh, dẫn chứng đặc sắc thú vị. Ông không có tài hùng biện, lôi cuốn của tướng Nguyễn Chí Thanh, không có tài kể chuyện thú vị của tướng Trần Độ, không có sự sống động dày dạn của lão tướng Lê Trọng Tấn, không có sự táo tợn bộc trực của tướng Phùng Thế Tài, cũng không có cái giọng bình dân lính tráng bỗ bã của tướng Đinh Đức Thiện.
Vốn là giáo sư sử học trường tư thục Thăng Long, tướng Giáp say mê nghiên cứu lịch sử, hiểu rõ thiên tài quân sự của Napoléon. Ông thông minh, đôi mắt sáng, có trí nhớ tốt. Nhưng cách trình bày, khoa sư phạm của ông thường lại sáo mòn, đầy những quy luật, nguyên tắc nhạt nhẽo, khô cứng, lặp đi lặp lại đến phát chán cho người nghe. Bao giờ cũng là do sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, có đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn; có Quân đội Nhân dân, quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân bao bọc, che chở, nuôi dưỡng, gồm 3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, phối hợp chặt chẽ 3 vùng: rừng núi, trung du và đồng bằng; vùng tự do, vùng tranh chấp và vùng tạm chiếm; luôn giữ quyền chủ động cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu, kết hợp chặt chẽ tiền tuyến với hậu phương…, quanh quẩn chỉ có thế.
Tướng Peter Mac Donald của Quân đội Hoàng gia Anh, từng sang Việt Nam gặp tướng Giáp hồi 1987 đã viết cuốn «GIAP - hai cuộc chiến tranh Đông Dương» (GIAP - les deux guerres d’ Indochine) do nhà xuất bản Perrin - Paris phát hành năm 1992, trong đó ông nhận xét: «Những tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là chán ngán đến chết người » (ses pensées transcrites sur le papier sont souvent mortellement ennuyeuses). Đây là nhận xét gần với sự thật.
Kết luận cuốn sách 350 trang, tướng P. Mac Donald viết: «Từ khi còn trẻ, tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng sản. Thật đáng tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách bảo ông rằng cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, để từ đó tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông. Như một người theo Công giáo thời Trung cổ sợ hãi bị trừng phạt khủng khiếp khi bỏ đạo, ông đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí Minh dẫn giải».
Trên đây là nhận xét khách quan của một nhà quân sự già dặn từng ở trong quân đội Anh 32 năm, từng sống qua 26 nước, từng nghiên cúu kỹ trận Điện Biên Phủ, từng là chủ biên cuốn Lịch sử thế giới (1987).
Bi kịch lớn nhất của tướng Giáp khá nhiều người nhận thấy đúng là: một danh tướng, có kiến thức, thông minh nhưng lại không đủ thông minh và dũng khí để sớm nhận ra và từ bỏ một lý thuyết sai lầm tệ hại, chỉ đem lại tàn phá và tổn thất cho nhân dân, đến nay vẫn chưa có tự do và hạnh phúc khi ông nhắm mắt.
............./.