NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO CÁC ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN ...





NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO CÁC ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN TRƯỚC 1975 VÀ Ý NGHĨA CỦA CHÚNG

******
Vũ Linh Châu - Nguyễn Văn Luân

******



********

Từ lâu, tôi đã có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục về việc đặt tên cho các đường phố tại Sài Gòn vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta dành được độc lập từ tay thực dân Pháp. Vì đây là một công việc quá xuất sắc và quá hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công trình do sự đóng góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả, nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo…




Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn Văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đã được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô Văn Phát, Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Sài Gòn.

Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường phố Sài Gòn

Trong những năm làm việc tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn, tôi có dịp góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Sài Gòn Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc thì tại Khu Kiều Lộ Sài Gòn Đông (Sài Gòn) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường thì ngập nước sau cơn mưa, đường thì có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường thì dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc lòng tên hơn 300 con đường.


Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:


Boulevard Charner
Boulevard Galliéni
Boulevard Kitchener
Boulevard Norodom v.v
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho Chính Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.


Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài Gòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi.


Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn năm 1967 (Ảnh của John Beck)



Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường thì đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy còn thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ.


Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Phòng Hoạ Đồ.


Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên gì và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ý sâu xa của tác giả.


Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với địa thế, và các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem cái nhìn vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khía cạnh vừa tình vừa lý, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của mình, bởi vì ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rõ ràng là ông có ý ấy:


* Đầu tiên là những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
* Đường đi ngang qua Bộ Y Tế thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
* Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang qua Pháp Đình Sài Gòn. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. 
* Ba đường Tự Do, Công Lý và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
* Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài Gòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
* Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
* Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.

* Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
* Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.

* Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.

* Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ lòng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải tìm đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Sài Gòn, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.

* Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.

* Trường nữ Trung Học Gia Long lớn nhất Sài Gòn thì, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút gì cho trường nữ Trung Học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
* Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý, nhưng có lý hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.

Ông Nhà Văn – Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc.


Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô Văn Phát đã về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đã làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này.


Cũng chuyện đặt tên đường
Vua Lê Thánh Tôn đã mở mang bờ cõi nước ta từ Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đã vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, vĩnh viễn xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi còn tiếp tục mang về cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc…


Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung phần trù phú màu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cõi này cũng bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.


Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện nay là do dòng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đã mang về cho dân tộc Việt Nam!


Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đã có công rất lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền Vương đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc bình định và chinh phục vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Sài Gòn… bây giờ. Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lấy tên của Ngài để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào trung tâm Thành Phố Sài Gòn. (Chế độ sau này đã thay Hiền Vương bằng tên của Võ Thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú…).


Loại bỏ tên của Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương và các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài Gòn và các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao bình dân gọi là “ăn cháo, đá bát”.


Đấy là chưa nói tới giấc mộng… Tây Tiến chưa thành. Hai vị trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đã mở mang bờ cõi nước ta tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đã thiết lập thêm một Trấn mới là Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). Phải chăng chính vì vậy mà ngay từ khi vừa giành được chủ quyền từ tay thực dân Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài Gòn hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất Miên qua ngả Gò Dầu, đã được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một “Mission unaccomplished”…


Vũ Linh Châu và Nguyễn Văn Luân

Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Ai đã đặt tên cho các đường phố Sài Gòn trước 1975?”
Theo TongPhuocHiep.com (Trang web của nhóm cựu học sinh trường trung học Tống Phước Hiệp – Vĩnh Long)


/////////



Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát




Tiểu sử nhà văn Ngô Văn Phát:


Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.


Thuở nhỏ ông học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, họa mười hai bài Thập Thủ Liên Hoàn của Thương Tân Thị… Có lúc ông dạy Việt Văn tại trường Pétrus ký Sài Gòn.


Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài Gòn.


Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du).


Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.


Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn.






.............../.


TRẬT TỰ ? TRẬT TỰ GÌ ?


TRẬT TỰ ? TRẬT TỰ GÌ ?


Cao Huy Thuần



https://www.diendan.org/the-gioi/trat-tu-trat-tu-gi




Các anh chị thân mến, xin các anh chị xem đây chỉ là một bài nhập đề, một món ăn chơi trước khi nhập tiệc. Chúng ta nói đến "trật tự mới", nhưng thế nào là "trật tự" và đâu là trật tự cũ để bây giờ ta nói thế giới đã bước qua trật tự mới? Vấn đề vừa lý thuyết vừa dài dòng lịch sử, tôi chỉ xin tóm lược.
Trước hết, thế giới chưa bao giờ trật tự, nếu ta hiểu "trật tự" như trật tự trong một quốc gia. Nhưng thế giới cũng không phải là rừng rú, cho nên ta cũng đành phải nói trật tự, tuy ai cũng thừa biết rằng đó là trật tự được sắp đặt dưới sức mạnh của các nước lớn và không phải ai cũng chấp nhận. Giống như một mặt biển tưởng có lúc phẳng lặng nhưng bao giờ phía dưới cũng có những đợt sóng ngầm, trật tự nào trên thế giới cũng có kẻ phản đối, từ ngầm đến nổi, nhưng phản ứng nào của kẻ yếu cũng nhân danh một "trật tự" khác để thay thế. Từ đó mà có "trật tự cũ" và "trật tự mới", khái niệm "trật tự" là cơm bữa của các lý thuyết gia.
Thứ hai, trật tự ấy là quốc tế hay thế giới? Tiếng Anh quen dùng từ "world order"world là thế giới; thế giới gồm nhiều lực lượng, nhiều sức mạnh không cứ là quốc gia. Hải tặc trên biển lắm khi mạnh hơn cả hải quân. Ông Facebook, ông Google, ông Amazon ngự trị trên một không gian không có biên giới lãnh thổ. Thế nhưng chiến tranh vẫn là chiến tranh giữa các quốc gia, Biển Đông mênh mông vẫn có kẻ vẽ đường lưỡi bò, "Việt kiều" về nước mẹ vẫn âm thầm nhận một khuôn dấu hải quan trên hộ chiếu Việt Nam, chung thủy là trong lòng, bước qua là biên giới. Thực tế quốc gia vẫn sờ sờ ra đấy như yếu tố lớn nhất, quyết định nhất, trong mọi quan hệ trên thế giới. Quan hệ ấy, ta lại gọi là "quan hệ quốc tế" giống như tiếng Pháp tiếng Anh, "international relations". Bởi vậy, ông tổ sư của ngành quan hệ quốc tế trong đại học Pháp, Raymond Aron, không dùng khái niệm trật tự; ông dùng khái niệm "hoà bình" bởi vì đó là tình trạng liên quan đến các quốc gia. Ông nói, và ông nói có lý: giữa các quốc gia với nhau, chỉ có một trong hai tình trạng thôi, hoặc là hoà bình, hoặc là chiến tranh. "Cho đến bây giờ, ông viết, hoà bình là tình trạng không sử dụng các thể thức bạo lực, trong một thời gian hoặc ngắn hoặc dài, nhưng cạnh tranh là thường xuyên giữa các quốc gia". Cạnh tranh luôn luôn có, thương mãi luôn luôn có, nhưng vũ khí không nổ: ấy là hoà bình.
Với một quan niệm "hoà bình" như vậy, quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới có thể bài trí dưới ba hình thức để khỏi đi đến chiến tranh: hoặc là đế quốc, hoặc là bá quyền, hoặc là cân bằng lực lượng. Lịch sử châu Âu có Pax Romana. Lịch sử châu Á có thiên tử. Lịch sử hậu Napoléon có hoà bình của Metternich dựa trên cân bằng lực lượng giữa Đức, Pháp, Áo, Anh, Nga. Pax Romana thì xa quá rồi và không liên quan đến ta. Nhưng Pax Americana thì gần ta lắm và đỉnh cao là "hyperpuissance" dưới thời Bush con. Bây giờ đây, và không biết cho đến bao giờ, Pax Sinica là cái rọ đang chực úp trên đầu ta.
Mô hình "Peace and War", vì vậy, ăn khớp với quan tâm của ta hơn, vì ai cũng nói đó là nơi hội tụ trọng điểm để nổ chiến tranh. Nhưng ấy là giới hạn vấn đề trong vùng. Trên toàn thế giới, khái niệm trật tự vẫn được ưa chuộng và đi kèm theo khái niệm "cực": trật tự nhất cực, trật tự lưỡng cực, trật tự đa cực. Nhất cực là dưới thời Bush con. Lưỡng cực là trong chiến tranh lạnh. Đa cực là từ sau thời Bush. So sánh với Pax Sinica, thì ta có thể nói: trên toàn thế giới, đó là tình trạng trung gian gian giữa "đa cực" và "lưỡng cực" (G2); trong vùng của ta, đó là hình thức trung gian giữa "lưỡng cực" và "nhất cực", với cái viễn tượng mà "nó" nhắm: mặt trời thì chỉ có một.
Từ sự phân biệt về cực, lý thuyết dễ dàng định hình giữa "cũ" và "mới". Cái mới của ngày hôm qua là đa cực. Cái mới ấy, nay đã thành cũ. Cái mới của bây giờ là chẳng còn thấy cực nào nữa. Có phải đấy là cái thế giới mới mà các anh chị muốn nói đến chăng? Cũng chưa hẳn, nhưng tôi xin nói về sự mất tích của khái niệm "cực" trước đã, thế giới ngày hôm nay cực kỳ lộn xộn, phức tạp, hỗn loạn, vô trật tự, vô phương hướng. Có người gọi đó là "apolaire", dịch là "phi cực" chăng? Ông Laurent Fabius, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao thời Hollande, gọi đó là "zéro polaire"(1). Thì cũng như gọi lợn là heo, nhưng dễ dịch hơn: "zéro cực". Không có cực. Tả pí lù.
Vậy trước hết, thế giới ngày nay là một thế giới tả pí lù. Hồi 1991, khi Mỹ độc tôn trên thượng đỉnh thế giới, khi Liên Xô cáo chung, một ông lý thuyết gia mà ai cũng biết tên, trót dại xướng lên một thuyết mà bây giờ ai cũng cười: "lịch sử chấm dứt"."The end of History". Bởi vì ông nghĩ rằng trên thế giới từ đây chỉ còn một trật tự duy nhất thôi là "trật tự tự do" - một "liberal order" - với dân chủ, kinh tế thị trường, và các giá trị của Tây phương. Đâu ngờ! Thay vì lịch sử chấm dứt, lịch sử chảy ào ào như thác đổ, ồ ạt xuất hiện loạn xà ngầu vô số thế lực quốc gia và phi quốc gia cạnh tranh nhau thường xuyên, nào chính phủ, nào xí nghiệp, nào ngân hàng, nào quỹ tài chánh, nào Standard & Poor's, nào Weakileaks, nào truyền thông, nào mafia, nào Allah Akbar, nào đốp chát văn minh... tất cả đều có trước đó, nhưng bây giờ không có thế lực quốc gia nào "trật tự hoá" nổi, dù G20, G7, WTO. Ngày trước, địa chính trị chỉ biết đất và biển, sau đó mới nhìn lên không. Bây giờ trên không không phải chỉ có máy bay, vệ tinh, mà bao nhiêu thứ sóng, tấn công nhau không phải đùng đùng súng đạn mà vô hình vi-rút, do thám nhau khỏi cần gián điệp, một cái bụng mang bom đủ gây kinh hoàng cho cả thế giới, đại cường số một cũng không thắng nổi một lủ cờ đen, bạc ảo thay cho bạc thật, biển cả không doạ nỗi tiếp tiếp làn sóng di cư, nghèo đói nơi này là bất an ninh nơi khác... Chẳng ai biết thế giới sẽ đi đến một trật tự nào.
Từ đó, thứ hai, ngay cả khái niệm sức mạnh - powerpuissance - trên đó những lý thuyết về "cực" được xây dựng, cũng bị khủng hoảng. Trước đây, danh từ ấy được dùng để chỉ các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc và chỉ các cường quốc tạo dựng trật tự thế giới. Ngày nay, khi nước Mỹ tuyên bố "chiến tranh chống khủng bố", khủng bố bỗng biến thành địch thủ ngang ngửa với siêu cường, cũng là "sức mạnh" như ai, đâu có riêng gì quốc gia? Cả khái niệm "chiến tranh" cũng vậy. Ngày trước, chiến tranh là giữa các quốc gia với nhau, bây giờ khi drones của Mỹ đuổi theo các đầu đảng của "khủng bố" ở biên giới Pakistan, đâu còn chiến tranh theo đúng nghĩa của luật pháp cổ điển? Chiến tranh ngày nay hầu hết là nội chiến nhưng hậu quả lại lan đến tận những nước giàu xa xôi ngàn dặm. Đâu là biên giới của an ninh? Giữa các quốc gia với nhau, trật tự có thể được an bài hoặc bằng bạo lực, hoặc bằng thương thuyết; bây giờ, giữa các quốc gia và loạn xà ngầu các tay chơi quốc tế, tay nào cũng là "sức mạnh" cả, ai an bài ai được? Các lý thuyết gia nói: thế giới ngày nay là một thế giới vỡ. Như nhìn vào một cái gương vỡ, nào ai thấy được hình ảnh gì rõ rệt.
Thứ ba, thế giới hiện nay là vỡ còn vì sức mạnh được phân tán giữa các quốc gia. Mỹ hãy còn là cường quốc đứng đầu thế giới, nhưng chỉ rõ ràng trên lĩnh vực quân sự. Những yếu tố khác của sức mạnh, nhất là kinh tế, Âu châu còn được xem là cường quốc, còn Trung Quốc thì khỏi nói. Ông Fabius tiên đoán thêm: 3 nước Âu châu hiện nay hãy còn đứng vào hàng ngũ 6 nước mạnh nhất về kinh tế sẽ mất hẳn địa vị ấy vào năm 2030; hai mươi năm sau, 2050, trong 30 nước đầu đàn về kinh tế, 19 nước là các nước "đang trổi lên". Các nước ấy là nước nào? Cách đây chục năm, ai cũng nói đến BRICS (Brazil, Nga, Ấn, Trung Quốc, Nam Phi). Bây giờ ai cũng nói sức mạnh đang dời về châu Á, đoán rằng Trung Quốc và Ấn Độ sẽ ngự trị thế kỷ 21. Dự phóng tương lai vốn là nghề của các Forum quốc tế. Forum Saint-Laurent ở Montréal, Canada, căn cứ trên thống kê, nói chính xác hơn trong kỳ họp tháng 5 năm nay: Năm 1995, tỷ lệ của G7 trong PIB (GDP) của cả thế giới là 45%; năm 2018 sụt xuống 31%; năm 2050 sẽ chỉ còn 20%. Ngược lại, tỷ lệ đó của các nước "đang trổi lên" là 22% năm 1995, 36,3% năm 2015, xấp xỉ 50% năm 2500(2) . Tôi không ham chuyện tiên đoán, trích các con số đó chỉ cốt nói rằng trong một thế giới mà sức mạnh phân tán như vậy, chẳng ai thấy đâu là cực ngoài cái anh Bắc Kinh. Nhưng, đứng trên toàn thế giới mà nhìn, anh quy tụ được bao nhiêu nước xung quanh anh để gọi anh là "cực"?
Thứ tư, thế giới ngày nay mất tin tưởng ở toàn cầu hoá, ít ra là trong các xã hội phương Tây. Giai đoạn những năm 1990 chứng kiến một toàn cầu hoá lạc quan, kinh tế đi lên, đời sống vật chất dễ dãi, không gian biên giới rộng mở, thương mãi thông thoáng, Cộng Đồng Âu châu thành lập. Từ những năm 2010, quang cảnh đảo ngược, bất bình đẳng xã hội gay gắt, Cộng Đồng Âu châu khủng hoảng, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi bành trướng, kỷ luật tập thể lung lay trên mọi lĩnh vực: thương mãi, môi trường, khí hậu, luật pháp. Ta đang sống trong giai đoạn toàn cầu hoá sầu não, chẳng ai thấy đâu là lộ trình dẫn dắt thế giới đi vào tương lai. Thế giới ngày nay là một thế giới quờ quạng đi tìm phương hướng.
Thế nhưng, thứ năm, trên đây là nói chuyện toàn thế giới, chưa nói chuyện vùng, chưa nói "trật tự vùng". Bởi vì mỗi vùng có thể có một "trật tự" riêng, rõ ràng nhất là Trung Đông, nơi quy tụ bao nhiêu sức mạnh, từ bên ngoài cũng như từ bên trong, để chiếm ưu thắng, để áp đặt một trật tự theo ý mình. Cũng rõ ràng không kém là trật tự mà hai đại cường, Mỹ và Trung Quốc, đang tranh chấp để duy trì một trật tự cũ hoặc để thiết lập một trật tự mới ở trong vùng của chúng ta. Trên toàn thế giới, khái niệm "world order" có thể áp dụng được. Trong vùng của chúng ta, dùng khái niệm "Peace and war"của Aron coi bộ thích hợp hơn. Chúng ta đang sống chết với Pax Sinica.
Vậy thì, tôi xin kết luận về vấn đề mới và cũ trong đề tài hội thảo của các anh chị: trên toàn thế giới, nhưng đặc biệt là trong vùng của chúng ta, cái mới vẫn là thế giới vô phương hướng, nhưng mới hơn nữa, mới toanh, là sự xuất hiện của hai tay hảo hán đưa yếu tố cá nhân tính vào trọng điểm của quan hệ quốc tế, dù là "world order" hay là "Peace and war": Tập và Trump. Đừng tưởng quan hệ quốc tế chỉ có quốc gia và phi quốc gia. Còn có vai trò của các cá nhân cao thủ lái thời cuộc đi vào đường này hay đường khác, tạm kể hai ví dụ rõ nhất ngoài Trump và Tập: Putin của Nga, Kim Un của Triều Tiên. Tôi đi vào cái mới của các anh chị, cái "trật tự mới" của đề tài hội thảo.

°°°
Cái gì là mới nơi Trump? Báo Mỹ đặt cho ông nhiều tên lắm, trước hết ông là chiếc xe ủi đất, một bulldozer. Ông ủi tuốt luốt tận cả cái nền móng trên đó Pax Americana đã được tạo dựng từ 1945. Lâu nay người ta đã nói nhiều về suy thoái của Mỹ, thậm chí lãnh đạo của Mỹ chỉ còn là "lãnh đạo từ đàng sau" ("leadership from behind"), làm như là có đánh tập hậu ở đàng trước. Dù sao, suy thoái ấy cũng chỉ là tương đối, "trật tự tự do" mà Mỹ lãnh đạo cũng chỉ lung lay. Lung lay, Trump ủi: ủi cả chữ ký của Mỹ trên thoả ước đa phương về nguyên tử với Iran, ủi chữ ký chưa ráo mực của chính ông trên thông cáo chung của G7 vừa tan họp ở Canada hồi mới toanh tháng 6, nghĩa là ông ủi tan xác pháo cái đa phương chủ thuyết nòng cốt của trật tự hậu chiến, như trước đó ông đã ủi nào cái ghế của Mỹ tại UNESCO, nào tiếng vỗ tay hân hoan của Obama khi kết thúc hiệp ước Paris về khí hậu, nào cái triển vọng cũng của Obama chận ảnh hưởng của Trung Quốc ở Á châu với hiệp định TPP, nào cái tự do mậu dịch mà chính Mỹ là tác giả khởi xướng. Đơn phương, ông chấm dứt hiệp ước tự do mậu dịch với Canada và Mê Hi Cô, ông đe doạ WTO, ông đánh thuế 25% trên thép nhập cảng, 10% trên nhôm. America First, ông phất cờ đơn phương chủ thuyết, đe doạ cả NATO. Có người hỏi: vậy thì "học thuyết Trump" về quan hệ quốc tế là gì? Trả lời của một cận thần: "Chúng tao là nước Mỹ, mẹ kiếp!"-"We're America, Bitch!"(3) . Định nghĩa đơn giản, sáng sủa, trực tiếp, tha hồ cử tri vùng Midwest ào ào bỏ phiếu.
Như vậy là để "make America great again", ông ủi một trật tự thế giới xây trên một số nguyên tắc tối thiểu, trên luật pháp, dù là tối thiểu, nghĩa là dù sao cũng trên một tiêu chuẩn gì đó để tiên đoán. Ông ủi luôn cái tiên đoán, ai cũng nói đặc biệt của ông là bất khả tiên đoán. Chẳng ai biết ông muốn cái gì khi nói, nói cái gì đáng tin, tin cái gì ông phát ngôn, phát ngôn cái gì ông sẽ làm, làm cái gì ông tweet tweet. Ông ăn nói, hành động theo cảm tính, xung động, bất kể đúng sai, ai cũng nói thế. New York Times viết: chiến tranh mà ông làm là chiến tranh với sự thật, nhá nhem giữa thật và dối. "Một khi sự phân biệt giữa thật và giả mất đi, tờ báo viết thế, cái gì cũng có thể xảy ra". Lộng giả thành chân. "Lời nói của nước Mỹ, tờ báo viết tiếp, ngày nay gần như chẳng có ý nghĩa gì nữa. Vậy mà an ninh của thế giới đã dựa trên lời nói của nước Mỹ từ 1945"(4) .
Cái ấy là mới. Tuy rằng không hẳn mới. Bởi vì Trump chỉ là triệu chứng, hiện tượng, không phải là nguyên nhân của cái mới. Giống như một căn bệnh âm ỉ từ lâu, nay mới phát sốt, Trump chỉ là cái nhiệt kế của căn bệnh hỗn loạn đã từ lâu không có thuốc. Trump đổ thêm hỗn loạn vào hỗn loạn của câu hỏi: thế giới này đi về đâu? Cái mới là ông đổ hỗn loạn bằng cái lưỡi, lưỡi vốn không xương, và nơi lưỡi ông có hoả tiển.
Ngược hẳn với Trump bất khả tiên đoán, họ Tập láng giềng của ta muốn cái gì, lời nói phân minh, hành động đâu vào đấy, miệng nói chân bước, bước nào bước nấy vững như chân voi. Ông nói: diệt tham những thì cọp cũng giết mà ruồi cũng giết. Tưởng ông diệt tham nhũng. Đâu phải chỉ thế! Ông sát thủ! Giết đối thủ. Rồi ông mới sửa hiến pháp, tất cả răm rắp dâng tất cả quyền lực vào tay ông. Một tay nắm tất cả quyền lực cho đến mãn đời, cái ấy là mới. Không phải chỉ mới trong nội bộ: mới trong tham vọng toàn cầu. Đừng ai trên thế giới tiên đoán trong năm năm nữa, tay này sẽ lên, tay kia sẽ xuống, xu hướng này sẽ thắng, xu hướng kia sẽ bại, chỉ một tay ấy thôi, chỉ độc một mình Tập, chỉ một thảm đỏ ấy thôi, chỉ một thảm đỏ trải ra dưới một bước chân. Để làm gì vậy? Để "xã hội Trung Quốc thêm một lần nữa là vô địch trên hoàn cầu". Để "tăng cường danh dự đối mặt với Tây phương", tôi trích Global Times, tờ báo của đảng. Từng bước, với viễn cảnh rõ mồn một trước mắt, Tập bước, tiền bạc đi trước, súng ống chưa cần, vành ngoài là con đường tơ lụa, vành trong là mẫu hạm hàng không, ngôn ngữ trương ra với thế giới là "phát triển", không phải buôn bán, hoà bình là "hoà bình trong thịnh vượng kinh tế", không phải hoà bình chỉ là hết chiến tranh. Củ cà rốt của Pax Sinica sao mà hấp dẫn quá vậy.
Trên mặt trận ý thức hệ, "trật tự với gương mặt của Trung Quốc" sẽ thắng thế "trật tự dân chủ tự do" đang sụp đổ từng mãng trước mắt thiên hạ. Tương lai sẽ đưa tất cả thế giới, kể cả thế giới Tây phương, vào con đường của các "chính thể cứng rắn", từ giã mẫu mực Tây phương đã hấp thụ từ hơn trăm năm nay. Báo chí Tây phương gọi Tập là Tân Hoàng Đế. New York Times gọi Trump là thằng hề. Ông vua thì xông tới, ai cũng thấy, cũng biết, cũng sợ. Thằng hề thì tuyên bố rút lui. Nói thiệt hay nói dỡn vậy? Thật hay giả? Chưa bao giờ, trên thế giới hậu 1945 này, trật tự thế giới không lệ thuộc vào trật tự vùng. Một giọt dầu hoả ở Trung Đông đủ làm Mỹ gây đảo chánh lật bao nhiêu chính phủ phe tả trong vùng ấy. Chẳng lẽ bây giờ có kẻ miệng hùm gan sứa đến độ khoanh tay lặng nhìn một cái lưỡi bò liếm sạch Biển Đông? Rút lui? Rút lui khỏi một vùng mà ai cũng gọi là tụ điểm của tranh chấp nay và mai?
Cho đến nay, hai sách lược về an ninh đối đầu nhau trong vùng Đông Á: sách lược của Mỹ xây dựng trên một hệ thống đồng minh và sách lược của Bắc Kinh xây dựng trên một an ninh vùng không có sức mạnh can thiệp từ bên ngoài. Đồng minh của Mỹ - Nhật và Hàn Quốc - đang tự hỏi về mức độ khả tín của cam kết nơi người anh hùng địa ốc đã đi vào Bạch Ốc như đi vào sòng bạc. Dù ông thủ tướng Hàn Quốc hoan nghênh hết mình với cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Trump và Un, ông đang tự hỏi về mấy câu thốt ra từ cái lưỡi của ông anh đồng minh chỉ trích việc đóng quân của Mỹ ở nước ông là quá tốn tiền, việc tập trân với quân đội của ông là khiêu khích đối phương. Bộ ông anh muốn rút mà chả cần bàn trước? Thủ tướng Nhật thì lo ra mặt. Một viễn tượng sinh tử như vậy về an ninh mà ông bị gạt ra ngoài từ đầu đến cuối cái bắt tay giữa một cáo già và một cáo trẻ trong một trò ngoại giao chớp nhoáng mà thế giới chưa từng biêt, một thứ ngoại giao chợ búa đặc sản của Trump mà giới bình luận ở Pháp gọi là ngoại giao côn đồ, diplomatie de voyou, ký đó rồi xoá đó, chửi đó rồi tán đó. Bán linh hồn cho một tay poker? Bởi vậy, dù tin hay không, cả Nhật và Hàn Quốc đều phải lo tự lực cánh sinh, tăng cường sức mạnh. Đồng minh mà còn lo vậy, huống hồ chưa phải là đồng minh như nhiều nước khác trong vùng? Đây là cả vấn đề đối với Việt Nam.

°°°

Các anh chị thân mến, quân sư quạt mo không phải là nghề của chúng ta. Ta biết gì mà nói? Nhưng đã trót cả đời chơi với chữ nghĩa, trót mỗi năm một lần gặp nhau để dốc bầu tâm sự, thôi thì cũng moi ruột ra hàn huyên với nhau một chút lý thuyết thật ra cũng chẳng mới mẻ gì.
Chẳng có gì mới mẻ, giỏi như Khổng Minh thì mưu chước cũng chỉ có thế này thôi: khi bạn bị một đại cường uy hiếp, hoặc là bạn vẫy đuôi thần phục, hoặc là bạn cưỡng lại bằng cách tạo thế quân bình. Ngôn ngữ ngày nay gọi thái độ đầu là bandwagon, sách lược sau là balancing. Thời Tam Quốc, cái thế chân vạc Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền là balancing. Thời hậu-Napoléon, cái thế ngũ cường Đức-Pháp-Áo-Anh-Nga nhắm không cho một nước nào mạnh nhất trổi lên để đe doạ là balancing. Cổ kim Đông Tây chiến lược chỉ có ngần ấy: hoặc là anh tự làm mình mạnh hơn, hoặc là anh làm đối thủ yếu bớt, hoặc là anh tự túc tự cường, hoặc là anh liên kết với những kẻ khác đồng thuyền đồng hội. Có điều mới là thế này, so với hồi chiến tranh lạnh: thời ấy, với "trật tự lưỡng cực", quân bình chủ yếu là quân bình quân lực, nguyên tử với nguyên tử, vũ khí với vũ khí, sách vở gọi đó là hard-balancing; ngày nay, ở thời đại toàn cầu hoá, khi quan hệ hỗ tương chằng chịt lợi ích kinh tế, quân bình chủ yếu nhắm vào những trọng điểm không phải vũ khí, sách vở gọi đó là soft-balancing. Chẳng có ai ngây thơ để nghĩ đến một tình trạng trăm phần trăm soft, tay phải soft thì tay trái cũng phải lo hard. Con chó có cái đuôi để vẫy thì cũng có hàm răng nhọn để cắn. Tuy vậy, lý thuyết tràn đầy trong sách vở từ vài chục năm nay quy tụ xung quanh soft-balancing.
Sách vở nói: từ sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là từ sau chiến thắng lẫm liệt của Bush (con) ở Irak năm 2001, các cường quốc bậc trung, e ngại cái vị thế nhất cực của Mỹ, chăm lo tăng cường quan hệ đa phương, đa cực, để làm soft-balancing với Mỹ. Trung Quốc là rõ ràng nhất. Khom lưng, giấu tham vọng trong bụng, thậm chí tự nhận mình là thành phần của thế giới kém mở mang, học bắt chuột không phân biệt đen trắng, nhũn nhặn với cả Nga để liên minh, và cứ thế con vịt hoá thành thiên nga. Cái đặc biệt của soft là ở chỗ ấy: tránh tranh chấp trực tiếp, tránh nổ. Ngày trước, Trung Quốc làm soft-balancing với Mỹ. Ngày nay, khi Bắc Kinh đã trở thành đại cường số một trong vùng, có sách lược nào khác đối với các nước bậc trung ngoài soft-balancing? Nhật đang làm gì? Ấn Độ đang làm gì? Làm cái việc mà tác giả có tiếng Kenneth Waltz cho là xuất phát từ bản năng, chẳng cần ai dạy dỗ.
Tất nhiên, ai cũng biết: soft-balancing không phải là phương sách mầu nhiệm để duy trì hoà bình, ổn định. Bởi vì quân bình không bao giờ trường cửu, tuyệt đối. không bao giờ ở trạng thái tĩnh. Cái cán cân lực lượng ấy, chỉ cần bên này thay đổi một chút là bên kia cũng phải thay đổi theo, riết một hồi cái cân biến thành cái thang, bên này tăng lên chín lạng, bên kia tăng chẵn một cân, ổn định và bất ổn định tiếp nối nhau, ai biết chuyện gì sẽ xảy ra? Bởi vậy, trong sách lược soft-balancing, ngoại giao là vô cùng cần thiết để tránh nổ. Về mặt này, Trung Quốc cũng là tổ sư bồ đề, cái nước đã sản sinh ra cái lưỡi Tô Tần, nghe nó dụ kiến trong tổ cũng bò ra.
Đó là lý thuyết. Trên thực tế thì sao ngoài Nhật, Ấn và Úc là ba nước lớn? Tôi xin miễn đi vào chi tiết, số liệu v v..., chỉ mượn kết luận chung chung trong một bài viết công phu trên New York Times(5) mà chắc nhiều anh chị ở đây đã đọc. Tôi trích nguyên văn: "Nhiều nước đang tiến dần đến Trung Quốc và xa dần trật tự cổ truyền do Mỹ lãnh đạo. Các nước khác đang hy vọng chơi với cả hai phe". Xin đọc thêm: tất cả đều bàng hoàng khi Trump rút lui khỏi TPP, vì hiệp ước này được xem như ý muốn của Mỹ xấn vào Á châu để chận đứng ảnh hưởng của Trung Quốc. Đây là cú rút lui tiêu biểu nhất báo hiệu cho giai đoạn chuyển tiếp từ cái thế lãnh đạo của Mỹ qua một tình trạng gì đó không xác định được, nhưng ít dính chặt hơn cho các nước nhỏ vào một trong hai cực. Thế mạnh của Mỹ về quân lực vẫn còn đứng đầu ở Á châu, nhưng với quân lực càng ngày càng tăng và sức mạnh của kinh tế càng nàng càng nặng, Bắc Kinh kéo lại gần hơn với mình các đồng minh lâu năm của Mỹ như Phi Luật Tân, Indonesia. Về mậu dịch, các nước ở Á châu trao đổi với Trung Quốc nhiều hơn với Mỹ, có khi gấp đôi. Lệ thuộc về kinh tế nhiều hơn cho phép Trung Quốc thưởng phạt về thái độ chính trị, thưởng phe thân, phạt phe chống. Mỹ chỉ còn thắng thế về buôn bán khí giới, dù sao cũng còn giữ được ảnh hưởng về quân lực và ngoại giao. Nhiều nước trong 20 nước Á châu nằm trong cái thế không thể lựa chọn được giữa lợi ích kinh tế với Trung Quốc và nhu cầu an ninh với Mỹ. Giỏi thì đu dây như Duterte của Phi, đứng giữa chửi toáng cả tổng thống Mỹ, hạ nhục Obama, mà Mỹ vẫn cam tâm tiếp tục bảo đảm an ninh, trong khi Trung Quốc hài lòng ban phát cho vài nhượng bộ. Dở thì chịu ảnh hưởng cả hai, đứng giữa để cố giữ độc lập, nhưng độc lập cũng nửa vời mà liên kết thì cũng non già không hẳn. Đó là tình trạng rất dễ rơi vào, và chúng ta chỉ biết cầu chúc tổ tiên ban sức mạnh để Việt Nam không rơi vào. Sức mạnh đó, chúng ta gọi là nội lực. Và thế nào là nội lực áp dụng trong sách lượcbalancing?
Thứ nhất, xin đừng đi vào lô gích sửa hiến pháp của Tập Cận Bình. Họ Tập cần an ninh tuyệt đối ở bên trong, trong nội bộ, để bung ra bên ngoài. Tập trung mọi quyền hành, đập chết mọi tư tưởng khác mình từ trong trứng, lô gích cứng rắn ấy có thể hợp với Trung Quốc; lô gich ấy không hợp với Việt Nam. Bởi lẽ đa số nhân dân đại Hán ủng hộ Tân Hoàng Đế; bởi lẽ tự hào dân tộc bốc men lên tận trời xanh; bởi lẽ Trung Quốc thành công vượt mức, làm chóng mặt cả thế giới. Ta có được chừng ấy yếu tố không mà bắt chước cứng rắn? Chừng nào dân với chính quyền không phải là đũa một đôi mà là hai chiếc, chừng ấy cái hoạ bên ngoài đồng lõa với cái hoạ bên trong, địch nó biết tỏng ruột gan, balancing chỉ làm trò cười cho nó. 
Thứ hai, hãy làm sáng tỏ: thế nào là "đảng lãnh đạo". Người Việt Nam thừa trí thức để trả lời câu hỏi đó, chỉ thiếu cơ hội. Chỉ cần lấy một câu của Hồ Chí Minh, người đã sáng lập ra Đảng, cũng đủ để thấy ánh sáng. Câu đó nghe nói đã mòn tai: Đảng phải "trung với nước hiếu với dân". Nghĩa là gì? Là Đảng không phải là mục đích, Đảng chỉ là phương tiện. Mục đích là dân, là nước. Nếu vì đại hoạ mà nước mất, nghĩa là mục đích mất, phương tiện có còn chăng? Ở cái thế đứng mũi chịu sào của Việt Nam, người lãnh đạo là người dám chết trước. Người dám nói, như cha ông đã nói: "Nếu Bệ Hạ muốn hàng, trước hết hãy chặt đầu thần đã". Trung hiếu là như vậy. Lãnh đạo là như vậy. Có vậy, dân mới tin. Dân mới tin thì mới đồng lòng. Dân đồng lòng thì mới balancing. Không thì giơ hai tay.
Thứ ba, đừng khinh thường luật pháp quốc tế khi ta đang ở trong thế yếu. Trung Quốc nói: luật ấy là do trật tự của Mỹ đặt ra. Đúng vậy. "Hoà bình bằng luật pháp" ("La paix par le droit") là chủ ý của các nước thắng trận trong thế chiến thứ hai khi thành lập Liên Hợp Quốc. Nhưng bây giờ Trung Quốc cũng được hưởng lợi quá chừng khi ngồi trong Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết. Trong bao nhiêu chục năm cho đến bây giờ, Trung Quốc ra rả tuyên truyền ta đây là người bảo vệ kiên cường nhất của chủ quyền quốc gia, căn bản của luật quốc tế, có bao giờ chê luật ấy do ai đặt ra đâu? Thì Biển Đông cũng có luật, và luật ấy cũng bảo vệ cho ta. Kẻ yếu tự bảo vệ mình bằng mọi khí giới, súng đạn là khí giới nhưng luật pháp cũng là khí giới. "Giữa kẻ mạnh và kẻ yếu, giữa người giàu và người nghèo, giữa ông chủ và tên nô lệ, chính tự do mới là áp bức, chính luật pháp mới là giải phóng", dù cho tác giả của câu danh ngôn đó - Lacordaire - là người chống tự do, câu nói vẫn đáng giá. Bởi vậy, khi ta dùng luật để bảo vệ quyền lợi của ta ở bên ngoài, hãy chứng tỏ cho thế giới biết rằng nước ta cũng là một nước trọng luật, một nước văn minh biết thượng tôn luật pháp ở bên trong. Chứ miệng nói một đường mà tay bắt cóc đối thủ trên nước người ta thì ai tin ta? Trung Quốc làm thế giới sợ, khí giới của ta là làm cho thế giới thương, ít ra là đứng về phe ta khi có tranh chấp. Ngoại giao là gì nếu không phải là chiếm cảm tình? Làm soft-balancing mà lếu ngoại giao, mà thế giới không tin lời mình nói nữa, thì kết quả lộn ngược về phía kẻ mạnh.
Thứ tư, cũng vì lẽ ấy, thế giới khó tin ta đứng giữa khi chứng kiến, ủa, đối thủ gì mà anh em đồng chí, đọc chung một đèn, học chung một sách, hồng kỳ một lá cùng bay? Vị trí của Việt Nam đáng lẽ phải được cả thế giới ủng hộ vì cả thế giới đều ngán ông ngoáo ộp. Hãy nghĩ lại mà xem cái vốn cảm tình to lớn của ta trên thế giới trong chiến tranh vừa qua: với cái vốn ấy, ta đâu có làm chư hầu của ai? Và hãy nghĩ lại cái chữ domino trong chiến tranh ngày trước. Bản thân chúng ta đã cực lực phản đối sách lược dùng chữ ấy để biện minh cho việc tham chiến của Mỹ ở Việt Nam: con cờ Nam Việt Nam nhào thì cả Đông Nam Á đều có cơ nhào theo. Chúng ta phản đối vì Việt Nam lúc ấy bị làm con cờ trong bối cảnh lưỡng cực. Chúng ta không chôn cái chữ ấy để bây giờ phải đào lên: tự nó đúng hay sai tùy bối cảnh. Trong bối cảnh hiện nay, có nước nào không ủng hộ Việt Nam kiên cường bất khuất trước nước lũ Trung Quốc? Cái thế mạnh đó, ta chưa làm cho thế giới thấy được, thế giới chỉ thấy đặc khu, đặc khu, đặc khu, ba đặc khu chụm lại, có luật an ninh mạng yểm trợ, còn gì Việt Nam nữa để balancing? E rằng thế giới đang nghĩ chúng ta đùa dai.
Thứ năm, trong thời đại chằng chịt hỗ tương kinh tế này lại còn nhăng nhện thêm giữa lợi ích kinh tế và quyền lực. Điều khiển cái nhăng nhện ấy, cái gì Trung Quốc cũng mua được, mua đất: dễ ợt, mua người: khó gì! Tham nhũng là một cái chợ bán đồ xôn, tha hồ mua rẻ(6). E rằng một ngày nào đó, từ điển của một số nước nào đó sẽ định nghĩa từ "Nhà nước tham nhũng" là một Nhà nước trong đó "nó" mua hết. Và trẻ con các nước đó học chia động từ "tham những" theo văn phạm của Pháp sẽ ê a: "Tao tham nhũng / Mày tham nhũng / Thằng kia tham nhũng / Chúng tao tham nhũng / Chúng mày tham nhũng / Chúng nó mua hết". Vậy thì làm thế nào để đừng bán trôn cho "nó"? Không có cách nào khác: Tao khác mày. Mày học bài của mày, tao học bài của tao. Chính thể của mày, mày giữ. Chính thể của tao, tao theo. Nhưng thế nào là một chính thể khác? Thế nào dẹp đi cái chợ tham nhũng? Không có cách nào khác: kiểm soát. Luật kiểm soát. Dân kiểm soát. Dư luận kiểm soát. Chỉ chừng đó thôi mà suy ra, người Việt Nam thừa thông minh để biết thế nào là một chính thể khác. Khác nó thì mới xa được nó trong cái đầu, thì mới đứng được ở giữa để balancing. Thì thế giới mới thấy Việt Nam thực sự độc lập, đứng đầu sóng gió.
Các anh chị thân mến, chúng ta hãy tự hào là trí thức trói gà không chặt. Trói gà không chặt, nhưng trói lý tưởng thì chặt lắm. Lý tưởng ấy, bao giờ cũng chỉ một, ở bất cứ "trật tự" nào, đế quốc, bá quyền, nhất cực, lưỡng cực, đa cực, vô cực, cân bằng cứng, cân bằng mềm... Lý tưởng đó không có phe phái, không phân biệt ở ngoài hay ở trong chính quyền, sáng như gương, không xỏ xiên diễn tiến, ngay như cây thông giữa trời, bởi vì đó là lý tưởng của cả dân tộc, niềm ao ước chưa bao giờ được thành hình từ thời hết thực dân. Lý tưởng ấy, chúng ta đừng ngại lặp đi lặp lại hàng năm, mỗi kỳ hội thảo. Nguy biến đe doạ càng ngày càng nặng, an ninh giữ vững được hay không, trước hết là đũa có cùng gắp một đôi hay không, và để một đôi cùng sống cùng chết với nhau, không có cách nào khác: luật pháp, dân chủ, dư luận sáng suốt. Hãy khác đi để tồn tại. Y chang như "nó" thì có khác gì tự mình Hán hoá, tự mỉnh bóp chết tim trẻ, tự mình bịt mắt xung phong vào An Nam Đô Hộ Phủ ngàn xưa?


Cao Huy Thuần


Nguồn:  Bài viết cho Hội thảo "Việt Nam và trật tự thế giới mới", Warsaw 12/13-7-2018.
_________________________________________________


Chú thích:


(1) Laurent Fabius, Diễn văn đọc tại École Polytechnique ngày 25-6-2013.
(2) Gaïdz Minassian, Un monde de moins en moins occidental", Le Monde 15-5-2018.
(3) Jeffrey Goldberg trong The Atlantic, trích bởi Le Monde 13-6-2018. Chữ "diplomatie de voyou" cũng nằm trong số này.
(4) Roger Cohen, Tethered to a Raging Buffoon called Trump, New York Times, 13-4-2018.
(5) Max Fisher and Audrey Carlsen, How China is Challenging American Dominance in Asia, New York Times, 9-3-2018. Tương tự như vậy, xem thêm Mitsuru Obe, China's power closing in on US, warns think tank, Nikkey Asian Review, 8-5-2018.
(6) Ví dụ nhan nhản, gặp đâu nói đấy: Trong vùng Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc cung cấp tràn đầy như nước lũ tiền cho không, nhưng nhất là cho vay với lãi suất nhẹ. Từ 2006 đến 2016, Trung Quốc đã viện trợ 1,78 tỷ đô la cho các nước trong vùng. Tiền ấy nhắm trước tiên đến việc xây dựng hạ tầng cơ sở và đặc biệt được đánh giá cao vì không ràng buộc gì vào điều kiện phải sử dụng tốt như Tây phương đòi hỏi. Ngày 9-1-2018, bộ trưởng Úc về phát triển quốc tế và Thái Bình Dương, Concetta Fierravanti-Wells, tố cáo Trung Quốc xây "những con đường chẳng dẫn đến đâu cả" và những "công thự vô dụng"... Ở Vanuatu, sát cạnh Úc, nơi Bắc Kinh thâm nhập sâu nhất, Trung Quốc đầu tư trên 30 chương trình, trong đó có dự án xây một dinh thự chính thức mới của thủ tướng, được công bố đầu tháng tư vừa qua. Túi tiền của Trung Quốc là sâu hơn cả, chuyên gia về chính sách Trung Quốc Anne-Marie Brady, trường đại học Canterbury, nói như vậy. Tất nhiên là Úc rất lo về sự thâm nhập của Trung Quốc trong vùng của mình. Đây là vấn đề an ninh mà tổng thống Macron của Pháp đã đề cập đến trong cuộc công du Nouvelle-Calédonie đầu tháng 5 năm nay. (Trích báo Le Monde 2-5-2018. Nhan đề của bài báo đáng cho ta chú ý: "Các nước Tây phương lo ngại về ảnh hưởng của Trung Quốc trong vùng Thái Bình Dương"). Cũng nên nhắc lại: Pháp bán máy bay chiến đấu Rafale cho Ấn Độ, bán tàu ngầm cho Úc, thiết lập với hai nước ấy một "chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương", quyết định mỗi năm một lần phái một trong ba chiến hạm lớn gọi là "bâtiment de projection et de commandement" vào Biển Đông trên hải phận quốc tế mà Trung Quôc gọi là lãnh hải của minh. Đầu tháng 6 vừa rồi, Pháp lại còn chơi ngon, mời hải quân Anh và Đức lên một trong ba chiếc tàu ấy, tàu Dixmude, tạo hình ảnh một hợp tác Âu châu giữa Biển Đông. Tất nhiên Bắc Kinh phản đối sự vụ ấy, xem đó là "phương hại đến an ninh của Trung Quốc" (Le Monde 27-6-2018). Đây là những miếng đất mà ngoại giao của ta phải triệt để khai thác. Tây phương làm ăn với Trung Quốc nhưng đâu phải Tây phương không ngán.
Thêm một chuyện nữa, vẫn gặp đâu nói đấy, về thị trường mua bán tham nhũng, lần này ở Mã Lai. Najib Razak vừa mất chức thủ tướng sau tuyển cử ngày 9-5 vừa qua. Một trong những nguyên nhân: tham nhũng. Ông tham nhũng thế này, trích nguyên văn câu nói của tân thủ tướng: "Najib yêu tiền đến nỗi, ngày ông ta chết, ông ta nghĩ có thể hối lộ tên gác cổng thiên đường". Tân thủ tướng nói thêm: Tham nhũng, Najib bán cả nước cho Tàu. Tân chính phủ tuyên bố sẽ thương thuyết lại với Trung Quốc về những món tiền vay và xem xét lại về những dự án xây dựng hạ tầng cơ sở (Le Monde 12-5-2018).
Ở đâu cũng vậy...


................./.

Facebook và Minds


Facebook và Minds 


(trả lời email của một bạn sinh viên hỏi ý kiến về mạng xã hội Minds)


https://vnhacker.blogspot.com/

*************


Tôi không có Facebook, tôi đã xóa tài khoản từ năm 2010, vì tôi muốn bảo vệ cuộc sống riêng tư và năng suất lao động.

Tôi không thích Facebook vì họ có quá nhiều thủ thuật khiến người dùng trở nên phụ thuộc, luôn bất an không biết mình có đang bỏ lỡ gì hay không, ray rức bực dọc nếu chưa "up hình" hay cập nhật status mới, báo cho cả thế giới biết mình đang nghĩ gì làm gì ở đâu với ai.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói muốn thảnh thơi, hạnh phúc thì phải an trú trong hiện tại, nhưng Facebook khiến người ta lúc nào cũng sống ở tương "like". Lúc ở nhà thì muốn đi chơi để có hình mới "up Facebook", lúc đi chơi chỉ muốn về nhà để "up hình", chưa về tới nhà nhưng trong đầu đã lởn vởn suy nghĩ "hình này nên viết chú thích ra sao".

Tôi hiểu có cách sử dụng Facebook thông minh, biến nó thành công cụ để cải cách xã hội, như nhiều nhà hoạt động ở Việt Nam đã làm, hoặc đơn giản là để giải trí, kết nối với bạn bè người thân trong lúc rảnh rỗi. Tôi vẫn chọn không sử dụng để phản đối cái cách mà Facebook khiến người ta phụ thuộc quá nhiều.

Tóm lại, tôi không ưa và không sử dụng Facebook. Tôi không ngờ có ngày tôi sẽ bảo vệ Facebook, nhưng hôm nay tôi sẽ làm việc đó. Nếu phải chọn giữa Facebook và Minds, tôi sẽ chọn Facebook.

Mạng xã hội Minds mờ ám, nghiệp dư và kém an toàn


Tôi được biết nhiều người chuyển qua Minds vì Minds hứa rằng tiêu chí hàng đầu của họ là bảo vệ tự do ngôn luận. Tôi nghi ngờ Minds thực sự muốn bảo vệ tự do ngôn luận. Minds là một công ty, mục tiêu lớn nhất của họ vẫn là kiếm tiền. Tự do ngôn luận cũng chỉ là một cách để họ thu hút người dùng, vì có càng nhiều người sử dụng thì họ càng kiếm được nhiều tiền. Minds muốn kiếm tiền bằng ICO, nghĩa là họ sẽ phát hành đồng tiền của riêng họ (Minds token). Để bán được đồng tiền, các vụ ICO thường "hứa thật nhiều nhưng cũng thất hứa thật nhiều". Hơn một nửa vụ ICO năm 2017 dẹp tiệm sau khi đã ôm một đống tiền từ người mua.

Trào lưu công nghệ Blockchain đã sản sinh ra rất nhiều công ty ăn theo, mà đa số là lừa đảo. Các công ty này có những sản phẩm không liên quan gì đến Blockchain, không thể xây dựng bằng công nghệ Blockchain hiện tại, nhưng họ vẫn nói về Blockchain như cái cách mà các quan chức ở Việt Nam thể hiện sự cấp tiến bằng cách nói về cách mạng 4.0. Thông qua các vụ ICO, đánh vào lòng tham và sự thiếu hiểu biết của người dùng Internet, họ phát hành đồng tiền với những lời hứa hão huyền, thu về hàng chục, hàng trăm triệu USD, nhưng rồi nhanh chóng biến mất, chẳng làm được gì có ích cho đời.

Giả sử Minds thực sự muốn bảo vệ tự do ngôn luận, có nhiều lý do để nghi ngờ họ sẽ làm tốt hơn Facebook. Có hai phương tiện đấu tranh để bảo vệ tự do ngôn luận trên Internet: bằng công nghệ và bằng luật pháp. Về luật pháp, Minds cũng như Facebook đều là công ty của Mỹ, Minds không có lợi thế gì so với Facebook. Facebook có một đội ngũ luật sư và những người vận động chính sách hùng hậu, với nhiều năm kinh nghiệm thương thảo với chính quyền các nước. Không có lý do gì để tin rằng Minds sẽ làm tốt hơn Facebook trong vấn đề này.

Về công nghệ, Bill Ottman, CEO của Minds, tuyên bố trên BBC rằng:

Về việc bảo vệ quyền riêng tư, ứng dụng messenger của chúng tôi hoàn toàn được mã hoá, và ngay chính Minds cũng không có nội dung những câu chuyện của người dùng. Chúng tôi cố ý thiết kế Minds cách này để Minds hay bất cứ ai cũng không thể theo dõi người dùng, và đương nhiên Minds không thể đưa nộp những thông tin mà họ không có cho bất cứ chính quyền nào.

Bill Ottman hoặc là đang nói dối hoặc là, nguy hiểm hơn, không biết mình đang nói gì. Tôi xem mã nguồn của Minds thì thấy đúng là họ mã hóa nội dung chat, nhưng họ sử dụng một giao thức nghiệp dư, tạo nguy hiểm tiềm tàng cho người sử dụng. Vấn đề lớn nhất là Minds tạo và lưu trữ chìa khóa giải mã trên máy chủ của họ. Nghĩa là Minds có thể tự giải mã tất cả nội dung chat của người dùng.

(Góc chuyên môn: giao thức mã hóa đầu cuối tốt nhất hiện tại là Signal, nhưng Minds sử dụng một giao thức tự chế, tất cả nội dung chat được mã hóa bằng một bộ khóa RSA duy nhất. Giao thức này không đảm bảo forward-secrecy cho nội dung chat. Để chứng thực Minds lưu trữ khóa trên máy chủ, bạn có thể xem đoạn mã này).

Hệ thống của Minds không phải là một hệ thống phi tập trung (decentralized) như họ giới thiệu trên trang chủ. Tất cả thông tin, bài vở người dùng gửi lên Minds đều đi thẳng vào máy chủ do Minds quản lý, hoàn toàn không được lưu trữ bằng công nghệ Blockchain. Blockchain là một công nghệ thú vị, nhưng công nghệ này còn rất nhiều hạn chế và ở thời điểm hiện tại không thể chạy được một mạng xã hội ở mức độ toàn cầu bằng công nghệ này.

Minds nói rằng hệ thống trả thưởng của họ đang được xây dựng dựa trên công nghệ Ethereum. Hệ thống này chưa làm xong, không có gì đột phá về công nghệ và cũng không liên quan gì đến hệ thống chứa thông tin cá nhân của người dùng, đang và sẽ được lưu trữ ngay trên máy chủ của Minds. Không thể làm mạng xã hội trên Ethereum.

Không yêu cầu sử dụng tên thật là một điểm sáng hiếm hoi của Minds, nhưng trong đa số trường hợp có thể xác định được danh tính của một người, chỉ bằng cách nhìn vào hình ảnh, danh sách bạn bè, nội dung trao đổi, địa chỉ IP, v.v. Vả lại đa số người dùng đàng hoàng muốn sử dụng tên thật để tăng cường niềm tin và uy tín khi tham gia mạng xã hội.

Muốn đảm bảo riêng tư cho người dùng, muốn bảo vệ tự do ngôn luận trên Internet bằng công nghệ, cần phải có đội ngũ kỹ sư giỏi. Không phải tự dưng mà Facebook thuê hàng trăm chuyên gia an ninh mạng. Với những gì tôi đã nhìn thấy, với những lỗi sơ đẳng mà họ gặp phải, không có lý do để tin rằng Minds có đội ngũ kỹ sư tốt hơn Facebook.

Trước khi bàn về sự riêng tư, trước khi nói đến tự do ngôn luận, một mạng xã hội phải đảm bảo được an toàn cho người dùng. Tài khoản dễ bị hack thì không thể có bất cứ riêng tư gì, đừng nói chi đến tự do ngôn luận. Tôi tin rằng ở thời điểm hiện tại Facebook an toàn hơn Minds rất nhiều. Minds có thể sẽ được cải tiến theo thời gian, nhưng tôi thấy không có lý do để chuyển vào lúc này.

Trong bài phỏng vấn, Bill Ottman nói rằng:

Minds được tài trợ bởi chính cộng đồng mà nó phục vụ. Hiện giờ Minds có hàng ngàn người dùng đầu tư vào công ty và là chủ nhân một phần của công ty. Chính tiếng nói của cộng đồng góp vốn và sự kiểm soát của giới công nghệ trong cộng đồng bằng cách vào xem phần mềm nguồn mở sẽ giúp Minds đi đúng con đường đã chọn.

Đọc đoạn này và đoạn nói về việc Minds sẽ thưởng Minds token cho người dùng, tôi có cảm giác ông Bill muốn nói rằng người dùng là chủ nhân một phần của công ty, nhưng kỳ thực không phải như vậy. Bài báo giới thiệu Minds token có ghi rõ:

Ownership of the Minds token does not entitle the owner to any rights with respect to Minds, including distributions or voting rights.

Nói cách khác, người dùng không sở hữu bất kỳ cổ phần nào của Minds và không có bất cứ quyền quyết định gì. Bill Ottman và những người chủ của Minds toàn quyền quyết định mạng xã hội này sẽ ra sao.

Nhưng Facebook đã xóa bài và khóa tài khoản của chị Trương Thị Hà!

Đây là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc di tản sang Minds. Chị Trương Thị Hà đăng trên Facebook cá nhân một lá thư gửi thầy của mình, nhưng thư của chị biến mất và tài khoản của chị bị khóa. Sau đó tài khoản của chị được mở lại, nhưng thư vẫn mất.

Đây là một vấn đề hệ trọng và tôi thấy vui mừng trước phản ứng tẩy chay Facebook của nhiều người. Dẫu vậy tôi nghĩ cần phải bình tĩnh, tìm hiểu rõ lý do tại sao xảy ra chuyện này. Đồng loạt chuyển qua Minds là phản ứng nhất thời, khó giải quyết được nguyên nhân cốt lõi mà còn có thể gây hại.

Để làm ăn ở Việt Nam, Facebook bắt buộc phải tiếp nhận yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, nhưng không phải hễ Chính phủ yêu cầu gì là Facebook thực hiện ngay (nếu Facebook ngoan ngoãn vâng lời như các công ty trong nước, Chính phủ đã không nhọc công thiết lập Luật An Ninh Mạng). Mỗi năm Facebook công bố một Bản Báo Cáo Minh Bạch (Facebook Transparency Report) -- Minds không có một báo cáo như vậy. Báo cáo này có hai số liệu quan trọng:

1/ Số lần Chính phủ Việt Nam yêu cầu Facebook cung cấp thông tin người dùng và số lần Facebook đáp ứng yêu cầu.

Trong 6 tháng cuối năm 2017, Chính phủ Việt Nam 8 lần yêu cầu cung cấp thông tin của 12 tài khoản, trong đó có 3 yêu cầu thuộc dạng khẩn cấp (Emergency) và 5 yêu cầu thuộc dạng hỗ trợ thủ tục luật pháp (Legal process).

Cần phải nói rằng, yêu cầu của Chính phủ không phải lúc nào cũng xấu. Ví dụ như bạn bị lừa đảo trên Facebook, cảnh sát điều tra được tài khoản của kẻ lừa đảo và thuyết phục được tòa án ra lệnh khám xét; với lệnh này cảnh sát có thể yêu cầu Facebook cung cấp thông tin, nếu Facebook đồng ý, thông tin mà họ cung cấp sẽ giúp ích cho việc tìm được thủ phạm ở ngoài đời.

Facebook xem xét từng yêu cầu và luật sư của họ mất nhiều thời gian để quyết định có cung cấp thông tin hay không (một lần nữa, đây là một trong những lý do của Luật An Ninh Mạng). Trong số 8 yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, Facebook đáp ứng 3 yêu cầu khẩn cấp, nhưng từ chối 5 yêu cầu còn lại. Yêu cầu khẩn cấp là khi có nguy hiểm đe dọa đến trẻ con hoặc tính mạng và sự an toàn của một người nào đó, những yêu cầu này sẽ được xử lý nhanh hơn, nhưng Facebook vẫn sẽ có luật sư xem xét từng trường hợp một.

2/ Số nội dung (mỗi hình ảnh, bài viết, bình luận, v.v. được tính là một nội dung) mà Facebook chặn truy cập từ Việt Nam, dựa vào phản ảnh mà họ nhận được.

Trong 6 tháng cuối năm 2017, Facebook đã chặn truy cập từ Việt Nam 22 nội dung có tính chất phỉ báng. Phỉ báng ai và ai yêu cầu thì Facebook không nói rõ. Khác với khi xử lý yêu cầu trực tiếp từ các chính phủ, Facebook cũng không nói rõ quá trình ra quyết định xử lý nội dung phản cảm.

Có lẽ Facebook chỉ sử dụng công nghệ tự động phân loại nội dung và dựa vào báo cáo của người dùng. Khi có đủ người dùng báo cáo một nội dung, Facebook sẽ tự động chặn nội dung đó. Khi có quá nhiều người báo cáo một tài khoản là giả mạo, Facebook sẽ chặn tài khoản đó. Bất kể đó là các báo cáo láo. Hạn chế này của Facebook đã bị khai thác nhiều lần ở Việt Nam. Tôi có trao đổi với một số đồng nghiệp đang làm ở Facebook, họ nói rằng họ đã nhận ra vấn đề này, đã và đang tìm cách khắc phục. Nếu kỹ sư Facebook không giải quyết được, không có lý do để tin rằng Minds sẽ làm được.

Nhưng, quan trọng hơn hết và liên quan nhất đến vấn đề chúng ta đang bàn ở đây, Facebook không có chính sách xóa nội dung. Họ không tự ý, chủ động kiểm duyệt thông tin. Việc duy nhất mà họ làm là ẩn nội dung từ quốc gia mà nội dung đó được báo cáo là vi phạm pháp luật. Nguyên văn lời của Facebook:

When we restrict content based on local law, we do so only in the country or region where it is alleged to be illegal.

Facebook không phải là công ty duy nhất có chính sách này. Nói cho rõ, tôi không đồng tình với chính sách này, nhưng nó khác rất nhiều so với việc tự ý xóa bài hoặc chủ động kiểm duyệt.

Bài của chị Trương Thị Hà có vi phạm pháp luật Việt Nam hay không thì tôi không biết, nhưng chắc chắn không thể vi phạm pháp luật Mỹ. Do đó tôi tin rằng Facebook sẽ không bao giờ xóa và những người từ Mỹ vẫn phải xem được. Nếu bài của chị Hà biến mất hoàn toàn khỏi Facebook thì trước nhất cần phải tìm hiểu nguyên nhân.

Tôi nghĩ có những khả năng sau đây:

1/ Tài khoản của chị Hà bị hack và kẻ xấu đã xóa bài.

2/ Chị Hà vô tình xóa bài của mình.

3/ Ai đó đã nghĩ ra được cách báo cáo láo để ẩn bài của chị Hà trên toàn thế giới.

4/ Chính phủ Việt Nam yêu cầu Facebook xóa bài.

Tôi nghĩ việc cần làm trước tiên là đối thoại với lãnh đạo Facebook. Tôi biết có những kỹ sư và lãnh đạo ở Facebook quan tâm đến tự do ngôn luận. Người Việt Nam, bao gồm người Việt Kiều tị nạn, làm việc ở Facebook cũng không phải ít. Nếu cộng đồng có một tiếng nói chung mạnh mẽ, tôi tin rằng Facebook sẽ không thể im lặng.

Tôi nghĩ những người đứng đầu cộng đồng có thể viết một lá thư ngỏ, thu thập càng nhiều chữ ký, gửi đến Mark Zuckerberg và Lê Diệp Kiều Trang với đề nghị:

1/ Yêu cầu Facebook giải thích và cung cấp bằng chứng tại sao tài khoản và bài của chị Hà biến mất. Tôi tin rằng Facebook sẽ không nói dối.

2/ Yêu cầu Facebook phải minh bạch hơn nữa trong báo cáo về các nội dung mà Facebook chặn truy cập từ Việt Nam. Quỹ Điện Tử Tiền Phong (Electronic Frontier Foundation) đánh giá báo cáo của Facebook chỉ được 1 sao. Facebook phải cung cấp chính xác bao nhiêu yêu cầu gỡ nội dung là từ Chính phủ Việt Nam, khi gỡ một nội dung thì phải báo cho người dùng biết rõ tại sao và cho phép người dùng khiếu kiện.

3/ Yêu cầu Facebook phải đầu tư nhiều nguồn lực hơn nữa để giúp người dùng Việt Nam chống nạn báo cáo láo và có thống kê về báo cáo láo trong Báo Cáo Minh Bạch. Facebook phải lập đường dây nóng để hỗ trợ người dùng Việt Nam khi tài khoản bị chặn vì báo cáo láo.

4/ Cuối cùng, yêu cầu Facebook đưa ra một tuyên bố về quan điểm của họ đối với Luật An Ninh Mạng, những thỏa thuận nếu có với Chính phủ Việt Nam và những biện pháp cụ thể mà họ sẽ thực thi để đảm bảo quyền tự do ngôn luận và riêng tư của người dùng đến từ Việt Nam.

Nếu như lá thư rơi vào thinh không, hoặc không được trả lời thỏa đáng, lúc đó rời Facebook cũng chưa phải là muộn.

Hậu Facebook


Nếu rời khỏi Facebook, điểm đến vẫn không phải là Minds. Nếu chúng ta không học được gì từ lịch sử thì lịch sử sẽ lập lại. Mở tài khoản ở cùng một nơi có lợi thế là tiếng nói sẽ mạnh mẽ và dễ lan truyền hơn, nhưng kiểm duyệt cũng dễ dàng hơn.

Thay vào đó, hãy mở một tài khoản Twitter hay Mastodon và một blog cá nhân ở WordpressMediumBlogger hay Tumblr. Tiếp theo cài đặt phần mềm Signal (iPhone, Android) hoặc Wire (iPhone, Android) để liên lạc cho an toàn. Nếu sau khi ICO, Minds vẫn còn tồn tại và Minds cải tiến tốt hơn, đảm bảo an ninh hơn, sử dụng Minds cũng là một lựa chọn hợp lý. Mở blog cá nhân ở nhiều nền tảng blog khác nhau là để chia trứng ra nhiều giỏ khác nhau, làm cho việc kiểm duyệt khó khăn hơn. Đây cũng là cách tự kiểm soát nội dung của mình, không bị ảnh hưởng bởi thuật toán của nhà cung cấp dịch vụ.

Twitter không phổ biến ở Việt Nam, nhưng công ty này đủ sức mạnh để trở thành đối trọng với Facebook và họ cũng cam kết và làm rất nhiều để bảo vệ tự do ngôn luận của người dùng và tự do báo chí của các nhà báo. Báo Cáo Minh Bạch của Twitter có rất nhiều thông tin chi tiết hơn Facebook. Trong năm 2017, họ nhận được hơn 6500 yêu cầu gỡ bỏ nội dung nhưng chỉ đáp ứng 13%.

Vấn đề chính của Facebook, Twitter hay Minds là người dùng bị phụ thuộc vào một công ty vì lợi nhuận. Nếu không muốn trở thành sản phẩm của họ, nên cân nhắc sử dụng Mastodon. Mạng xã hội này giống như Twitter nhưng hoàn toàn phi lợi nhuận, không có quảng cáo và cho phép người dùng tự tạo máy chủ riêng, tương tự như email.

Sức mạnh của Facebook ở Việt Nam nằm ở số đông. Sức mạnh của mạng xã hội nằm ở sự lan tỏa. Nhưng Internet không chỉ có Facebook và mạng xã hội. Bản chất của Internet là phân tán. Để chống kiểm duyệt và bảo vệ tự do ngôn luận trên không gian mạng, cách tốt nhất là phân tán nội dung ra khắp Internet. Chúng ta vẫn và nên tiếp tục sử dụng Facebook hay Twitter để lan truyền nội dung, nhưng nếu thông tin nằm ở mọi nơi trên Internet, không ai có thể kiểm duyệt nếu như không muốn đóng cửa với thế giới bên ngoài.