Sự thật phũ phàng về Hiệp định
Nguyễn Quốc Khải
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/readersopinions-nqk-12172012160001.html
Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris
1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả
của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay.
Thay vì đưa
đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn
vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau. Những tài liệu về chiến tranh
Việt Nam được bạch hóa trong
thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris 1973.
Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris
1973
Cuộc hòa đàm
tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục
dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến
cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia
của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật
với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV)
và trong cuộc tiếp xúc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc
Kinh.
Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều
thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều hai Ông
Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý.
Cuộc hòa đàm
trở nên bế tắc.
Một mặt Ông
Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm
1972. Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến.
Ngày
23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ. Bốn
ngày sau đó, Hiệp Định Paris
được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện
tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng
60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam
tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương.
Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời Miền Nam Việt Nam
thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột.
Tổng Thống
Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.
Trong khi đàm
phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần
thay thế quân lực Hoa Kỳ.
Khoảng
cách chạy tội
Hiệp Định |
Việc mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng
không phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris . Thật vậy,
chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng
thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm
kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo.
Vì muốn bảo
vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm đủ
mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I
(1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào
tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng
Sản.
Trên một tài
liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger ghi chú
rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của Hoa Kỳ.
Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:
“We need a
decent interval. You have our assurance.”
Theo những
tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của
ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn
chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng
18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải
quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực
lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ
không can thiệp.
Nguyên văn
bằng tiếng Anh như sau:
“We will
set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a
cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then
it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the
[South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the
quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it
is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time
limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security
Advisor Henry Kissinger, Beijing ,
July 9, 1971.
Hoa Kỳ cũng
không muốn miền Nam Việt Nam
mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng
thua trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả. VNCH cần phải
tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại
trận cuối cùng. Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề
này:
“The
country would care if South
Vietnam became Communist in a matter of six
months. They will not give a damn if it’s two years.” President Richard M.
Nixon, March 17, 1973.
Ông Kissinger
trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không
bị bẽ mặt:
“ We’ve
got to find some formula that holds the thing together a year or two, after
which – after a year, Mr. President , Vietnam
will be a backwater. If we settle it, say, this October, by January ’74 no one
will give a damn.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.
Cả hai ông
Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc bầu cử tại Hoa
Kỳ vào tháng 11, 1974. Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là
mùa xuân 1976.
Nhà Sử Học
Ken Hughes thuộc University of Virginia
nhận xét rằng:
“Nhiều
người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn
ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam .
Nhưng Ông ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.”
Sử Gia Ken Hughes, June 2010.
Vào tháng 2,
1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi
sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách
một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình
trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval).
Kéo dài
chương trình Rút Quân và Việt Nam
Hóa chiến tranh
Những tài
liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:
1. Chương trình Việt Nam
hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ.
2. Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã
thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một
hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).
Để che đậy sự
thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự khuyến
cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972) của nhiệm
kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử
nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút quân qua
nhiều năm.
Trong cuốn
băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:
“We’ve got
dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to September
[to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard
Nixon, September 4, 1971.
Quân số Hoa
Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu
năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11,
1972.
Đối với công
chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu:
1.
Chứng tỏ chương trình Việt Nam
hóa thành công.
2.
Giữ lời hứa khi tranh cử.
Đối với sự
nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch định
chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không (Theo Ông
Nixon xác xuất chỉ có 40% - 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa
Kỳ rút về nước hay không.
Hãy nghe cuộc
đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày
11-3-1971:
Nixon:
“We’ve got to get the hell out of there.”
Kissinger:
“No Question.”
Tuy nhiên
trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh
dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt
Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự
bảo vệ và tự quản trị.
Hoa Kỳ
thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm
Tổng Thống
VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150.000 quân
CSBV ở lại miền Nam
sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng
Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972,
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ
VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính
phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát.
Nguyên văn
bằng tiếng Anh như sau:
“In the
proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it is
only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble and
Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.”
President Nguyen Van Thieu, Saigon , October 4,
1972.
Ông Thiệu cực
lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông
Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV
tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải
chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông
Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu:
“I don’t
know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn thing, that
is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20,
1973.
Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm |
Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được
quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào
cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật
vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định
Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm
1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lánh.
Trong khi đó
Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài
khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa
1975.
Tình trạng
miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa
Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện
trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ
giúp miền Nam Việt Nam khi
CSBV vi phạm Hiệp Định Paris .
Sau khi Đạo
Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh
Phước Long vào ngày 6-1-1975 và tỉnh Bình Long vào ngày 7-1-1975.
Khi không
thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để
giải phóng miền Nam bằng cách ngang nhiên xua quân vượt qua biên giới Bắc Nam,
tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng
chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự
đoán.
Bộ Trưởng Quốc
Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng
Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau, Tổng Thống Gerald
Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ
không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam .
Tại New
Orleans vào ngày 23-4-1975, Ông Ford tuyên bố chiến tranh Việt Nam
chấm dứt.
Vào buổi trưa
ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m Dreaming of a
White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di tản cuối cùng
của Hoa Kỳ bắt đầu.
Phục hồi
Hiệp Định Paris
1973?
Gần đây, có
vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại
Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH
(UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng
thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi).
Các tổ chức
này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris
1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva
1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam
cho VNCH.
Giả sử rằng
UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ may
nào cả, UBLĐLTVNCH sẽ không thâu tóm toàn bộ phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17 ngay
được.
Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam , UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính
Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào
ngày 25-4-1976) .
Nhưng trước
hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ
150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam
từ 1973 đến nay. Tóm tắt lại để đỡ tốn giấy mực, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu
không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 đau lòng này do
chính họ dựng lên.
Kết luận
Hoa Kỳ dưới
thời Nixon đã bỏ rơi đồng minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với một
quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia và
những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên án nặng nề
những lỗi lầm đó.
Đặc biệt GS
Larry Berman đã viết hai cuốn sách được nồng nhiệt đón nhận:
1.
Planning Tragedy: The Americanization of the War in Vietnam (1982).
2.
No Peace No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001).
Về phía người
Việt, hơn ai hết, chúng ta có trách nhiệm lớn về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần
đất này vào tay Cộng Sản.
Nếu Ông Hồ
Chí Minh khôn ngoan đã không du nhập chế độ Cộng Sản vào Việt Nam và nếu người
dân Việt Nam, kể cả một thành phần không nhỏ trí thức, khôn ngoan đã không đi
theo Cộng Sản để gieo rắc đau thương triền miên cho đất nước trong một nửa thế
kỷ và làm đất nước chậm tiến như ngày nay.
Một bài học
lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng
minh.
Nguyễn Quốc Khải
2012-12-17
Tài liệu tham khảo:
1. Larry Berman, “No Peace No Honor, Nixon,
Kissinger and Betrayal in Vietnam ,”
The Free Press, 2001.
2. Finding Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords
Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,” January 27, 2012.
3. Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh
Dự,” 27-01-2012.
4. Kennedy Hickman, “Vietnam War end of
conflict, 1973-1975,” Military History.
5. Ken Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s
Political Timetable For Withdrawing From Vietnam ,” Diplomatic History, Vol.
34, No. 3, June 2010.
6. Stanley
Karnow, “Vietnam
A History,” Penguin Books, 1997.
7. Jeffrey Kimball, “Decent Interval or
Not? The Paris
Agreement and the End of the Vietnam War,”December 2003.
8. Henry Kissinger, “Years of Renewal,”
Simon & Schuster, 1999.
9. Richard Nixon, “No More Vietnam ,” Arbor House, New York 1985.
10. Frank Snepp, “Decent Interval,” Random
House, 1977.
11. Global Security, “A Decent Interval –
Who Lost Vietnam ?”
May 7, 2011.
12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp
Định Paris
1973.”
....../.