KỲ 1: Dân đáng bị mắng hay nhà khoa học
đáng phải ra toà?
tamtambonba
Năm ngoái, một
phiên toà ở Ý làm xôn xao giới khoa học, vì theo cáo buộc của công tố viên, các
nhà khoa học không cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về khả năng động đất,
dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng về con người và tài sản của dân. Khả năng xảy ra
động đất thường rất thấp, nhưng hệ quả của nó thì rất lớn. Truyền đạt thông tin
này như thế nào để người dân có thể hiểu và tự quyết định cũng đang là vấn đề
thời sự ở Việt Nam .
Cảnh đổ nát ở thành phố sau trận động đất mùa xuân 2009. |
Theo báo chí, trong buổi báo
cáo bước đầu về tình hình động đất tại thuỷ điện Sông Tranh 2 ngày 12.9, trước
những hoang mang của cư dân địa phương, một nhà khoa học thuộc viện Vật lý địa
cầu tỏ vẻ bức xúc cho rằng người dân ở đây “quá kém hiểu biết”, chỉ mới nghe
động đất một chút là đã dắt trâu bò và tài sản bỏ làng. Vị này còn khuyên
“người dân cần phải bình tĩnh và có những ứng xử hợp lý hơn với động đất thì sẽ
không gây thiệt hại”. Nhưng hình như nhà khoa học chưa trình bày hay cung cấp
những thông tin gì để người dân an tâm. Do đó, câu phát biểu này được giới báo
chí xem là “mắng dân”. Theo tôi, một người ngoại cuộc, thì đây là vấn đề truyền
đạt thông tin khoa học.
Xu hướng không
tin vào khoa học
Nói một cách công bằng, truyền
đạt những ý tưởng và phương pháp khoa học đến công chúng có khi là một việc làm
rất khó khăn. Rất khó nói về gen và ADN cho công chúng nếu đa số thành viên
trong cộng đồng chưa có khái niệm gì về gen và chưa bao giờ nhìn thấy một mảng
ADN. Tuy nhiên, nhà khoa học có kinh nghiệm có thể dùng cách ví von để giải
thích ý tưởng và phương pháp khoa học.
Đối với các nhà vật lý lừng
danh như Allen Bromley (cựu chủ tịch hội Vật lý Hoa Kỳ), nếu nhà khoa học không
thể giải thích những gì họ đang làm cho một người bình thường thì điều đó cũng
có nghĩa nhà khoa học không hiểu vấn đề. Albert Einstein cũng từng nói rằng:
“Nếu bạn không thể giải thích điều gì đó một cách đơn giản, bạn không hiểu tốt
vấn đề”.
Nhưng, trong truyền đạt thông
tin về nguy cơ và rủi ro, có một sự mâu thuẫn giữa những gì công chúng kỳ vọng
và những gì giới khoa học có thể đáp ứng. Trong khi người dân muốn biết có hay
không có động đất (tức một câu trả lời xác định), thì nhà khoa học chỉ có thể
trả lời bằng xác suất (tức một câu trả lời bất định).
Từ sự bất đồng về cách trả
lời, công chúng càng ngày càng tỏ ra không tin vào giới khoa học. Một cuộc điều
tra xã hội thực hiện vào tháng 12.2011 (sau trận sóng thần ở Nhật) cho thấy chỉ
45% người Nhật nghĩ rằng giới khoa học nên định hướng chính sách khoa học và
công nghệ; năm 2009, tỷ lệ này là 79%. Tháng 4.2011, một điều tra xã hội khác
cho thấy chỉ có 41% người Nhật tin vào giới khoa học (con số này trong năm 2010
là 85%).
Do đó, xu hướng thiếu tin
tưởng vào giới khoa học không phải chỉ xuất hiện ở Việt Nam !
Nhưng so sánh thái độ của giới
khoa học Việt Nam
(như trên) và Nhật, chúng ta thấy có sự khác biệt đáng kể. Trong trận sóng thần
xảy ra ở Nhật vào năm ngoái, giới khoa học nước này phải ngậm ngùi cúi đầu nhận
tội. Họ thú nhận rằng họ thiếu kiến thức cơ bản về cơ chế sóng thần, và không
có khả năng dự báo một trận động đất lớn như thế. Giới khoa học Nhật thậm chí
còn tiên đoán sai chiều cao của sóng thần. Danh sách những thất bại và khiếm
khuyết dài đến 260 trang giấy. Trong khi đó, giới khoa học Việt Nam chẳng những
tỏ ra tự tin mà còn mắng người dân “kém hiểu biết”!
Ra toà vì đánh
giá sai nguy cơ
Ở Ý, có Uỷ ban quốc gia về dự
báo và phòng chống những nguy cơ lớn (National Commission for Forecasting and
Predicting Great Risks). Uỷ ban gồm bảy nhà khoa học. Ngày 31.3.2009, uỷ ban
họp một lần để đánh giá khả năng động đất. Theo biên bản buổi họp, chủ tịch
viện Vật lý địa cầu và khoa học núi lửa quốc gia, Enzo Boschi, được hỏi rằng
những cơn địa chấn đó có phải là tín hiệu báo trước một trận động đất (như năm
1703) sắp xảy ra? Boschi trả lời rằng dù rất thấp nhưng khả năng đó không thể
loại bỏ.
Ngày 6.4.2009, một trận động
đất mạnh 6,3 độ Richter xảy ra tại thành phố L’Aquila và các vùng lân cận. Thành phố tan
hoang. Trận động đất phá huỷ gần 20.000 toà nhà, làm 65.000 cư dân lâm cảnh màn
trời chiếu đất. Hơn 300 người dân tử vong, hơn 1.500 người bị thương. Một thiệt
hại quá lớn.
Một năm sau, tháng 7.2010,
công tố viên Fabio Picuti cáo buộc rằng uỷ ban (tức bảy nhà khoa học) tội ngộ
sát và cẩu thả, vì không cảnh báo cho công chúng biết về nguy cơ động đất.
Thế là các nhà khoa học đồng
nghiệp của Boschi trên thế giới gửi thư đến Tổng thống Ý phàn nàn rằng cáo buộc
của công tố viên là vô lý và thiếu công bằng, bởi không một phương pháp khoa
học nào có thể dự báo động đất một cách đáng tin cậy. Nhưng công tố viên Picuti
không đồng ý.
Bằng một lý giải và tranh luận
đậm bản chất Ý, ông nói:
“Tôi đâu có điên. Tôi biết họ
(các nhà khoa học) không thể tiên đoán động đất chính xác. Mấu chốt của vấn đề
không phải là họ tiên đoán đúng hay sai. Là quan chức của nhà nước, họ có nhiệm
vụ trước luật pháp về đánh giá và phân tích nguy cơ tiềm ẩn hay hiện có cho cư
dân thành phố”.
Ông nhấn mạnh rằng ông chỉ buộc
tội các nhà khoa học trong uỷ ban đã cung cấp thông tin không đầy đủ, thiếu
chính xác, và mâu thuẫn cho công chúng vốn đã hồi hộp cả mấy tháng trước đó vì
những đợt rung chuyển nhẹ.
Ông nói một câu sau này trở
thành lời cảnh báo cho các nhà khoa học:
“Nếu họ không biết những điều
cần biết – đó là một vấn đề, nhưng họ không biết truyền đạt những gì họ biết –
đó cũng là vấn đề”.
Vấn đề là truyền đạt thông tin
về nguy cơ. (còn một kỳ)
Tác giả Nguyễn Văn Tuấn
hiện là giáo sư, tiến sĩ thuộc đại học New South Wales (Sydney, Úc); trưởng
nhóm nghiên cứu tại viện nghiên cứu Y khoa Garvan (Úc) và là nghiên cứu viên
cao cấp hội đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc; giáo sư thỉnh giảng
tại một số đại học Mỹ, Thái Lan và Thuỵ Sĩ. Ông có trên 250 công trình nghiên
cứu, bài báo và báo cáo khoa học đã công bố trên các tập san khoa học và y khoa
lớn trên thế giới như Nature, Science, New England Journal of Medicine, Nature
Genetics... Nhiều đầu sách của ông cũng đã xuất bản tại Việt Nam, mới nhất là
cuốn Đi vào nghiên cứu khoa học.