Bẫy
Việt Vị của Thủ Tướng
bởi Osin
HuyDuc vào ngày 7
tháng 9 2012 lúc 6:26 ·
Osin Huy
Đức
Ủy ban Tài chính
của Quốc hội cần yêu cầu Ngân hàng Nhà nước công bố danh sách các tổng công ty,
tập đoàn nhà nước đã mở tài khoản và ồ ạt chuyển một lượng tiền lớn vào
VietCapital Bank ngay sau khi con gái của Thủ tướng, bà Nguyễn Thanh Phượng,
thôn tính ngân hàng này từ tên gốc của nó là Gia Định. Những con số ấy có thể
là một ví dụ thú vị về “lợi ích nhóm” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc tới
trong đợt kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương Bốn. Nhưng, quan trọng hơn, Quốc
hội cần biết công cụ chủ đạo của nền kinh tế đang được sử dụng như thế nào.
Kinh Doanh
Đa Ngành
Ý tưởng thành lập
tập đoàn không chỉ đến từ thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng, cần có đủ
thông tin để phân biệt mô hình tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng với mô hình tập đoàn áp
dụng từ những người tiền nhiệm.
Năm 1994, khi những
nỗ lực phát triển kinh tế tư nhân chững lại vì bị các nhà lý luận “cánh tay
phải” của ông Đỗ Mười như Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Nguyễn Đức Bình, coi là
chệch hướng. Sau Hội nghị giữa nhiệm kỳ, 1-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký
hai quyết định thành lập tổng công ty 90, 91. Trong đó, quyết định 91 có nói
đến “thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh”.
Ý tưởng thành lập
tập đoàn là từ ông Đỗ Mười với quan niệm nền kinh tế cần những quả đấm thép.
Nhưng cả ông Kiệt và nhiều ủy viên bộ chính trị đều tán thành. Lúc ấy, hơn một
nửa ủy viên bộ chính trị đã được đưa tới Hàn Quốc tham quan và gần như ai cũng
choáng ngợp mô hình Cheabol của họ.
Nhưng, từ 1994 cho
đến 2005, chưa có tập đoàn nào được thành lập theo quyết định 91. Cuối nhiệm kỳ
thứ II, Thủ tướng Phan Văn Khải cho lập 3 tập đoàn: Ngày 26-12-2005, tập đoàn
Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam; Ngày 09-01-2006, Tập đoàn Bưu chính
Viễn thông; Ngày 15-5-2006, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin.
Thủ tướng Phan Văn
Khải thừa nhận, ông là người quyết định cho Vinashin vay 700 triệu USD từ tiền
bán trái phiếu chính phủ. Ông Khải cho rằng, Việt Nam , một nước có hơn 3000 km bờ
biển không thể không phát triển ngành vận tải biển. Suy nghĩ về tiềm lực biển
của ông Phan Văn Khải không sai nhưng đầu tư bằng tiền cho quốc doanh không
phải là một cách làm tốt. Nhưng, sự sụp đổ của Vinashin bắt đầu từ khi tập đoàn
này được phép kinh doanh đa ngành.
Trước Đại hội Đảng
lần thứ X, ông Nguyễn Tấn Dũng được giao làm Tổ trưởng biên tập báo cáo kinh tế
của Ban chấp hành Trung ương trước Đại hội. Ông đòi ghi vào báo cáo chủ trương
cho doanh nghiệp nhà nước được kinh doanh đa ngành. Các thành viên trong tổ phản
đối vì điều này ngược với quan điểm phát triển doanh nghiệp nhà nước xác lập từ
thời thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Thay vì tiếp thu,
ông Nguyễn Tấn Dũng đã viết ra giấy, buộc các thành viên trong tổ phải ghi vào
Báo cáo kinh tế nguyên văn: “Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế
và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một
số ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi
phối”.
Nguyễn Tấn Dũng
nhận chức thủ tướng ngày 27-6-2006. Ngày 29-8-2006, ông cho ngành dầu khí được
nâng lên quy mô tập đoàn; Ngày 30-10-2006 ông cho thành lập thêm Tập đoàn Công
nghiệp Cao su… Tốc độ thành lập tập đoàn có chững lại sau khi ông Võ Văn Kiệt
khuyến cáo tính ít hiệu quả của mô hình này trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra
ngày 26-7-2007.
Ông Võ Văn Kiệt mất
gần 11 tháng sau đó và từ đó cho đến năm 2011, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đẩy
con số tập đoàn từ 5 lên tới 13. Nhưng, không phải số lượng các tập đoàn mà số
lượng ngành nghề mà các tập đoàn này được làm mới là nguyên nhân đẩy các doanh
nghiệp nhà nước và nền kinh tế đến bên bờ vực. Rất nhiều tập đoàn có ngân hàng,
công ty tài chính và chúng ta có thể nhìn thấy đất của Vinashin ở sâu trong đất
liền và hầu như không có tỉnh nào không có một tòa PetroLand mọc lên dưới thời
Đinh La Thăng.
Đại Nhảy
Vọt
Không có một vị thủ
tướng nào thừa kế một cơ ngơi có thể ngồi mát ăn bát vàng như Nguyễn Tấn Dũng:
Tốc độ tăng trưởng cao, lạm phát thấp; lần đầu tiên Việt Nam có dự trữ ngoại tệ
lên tới 23 tỷ đô la; đặc biệt, chính phủ Phan Văn Khải đã hoàn tất đàm phán để
Việt Nam chỉ cần làm thủ tục kết nạp là trở thành thành viên WTO. Nhưng, ngôi
nhà tưởng là vững chãi ấy đã bị đốt cháy chỉ hơn một năm rưỡi sau đó.
Thoạt tiên, khu vực
kinh tế nhà nước được Nguyễn Tấn Dũng sử dụng như một công cụ để thúc đẩy tăng
trưởng. Ông Phan Văn Khải nói: “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn tạo ra một thành
tích nổi bật ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, muốn hoàn thành kế hoạch 5
năm chỉ trong 4 năm. Ngay trong năm 2007, ông đầu tư ồ ạt. Tiền đổ ra từ ngân
sách, từ ngân hàng. Thậm chí, để có vốn lớn, dự trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ
cũng được đưa ra. Bội chi ngân sách lớn, bất ổn vĩ mô bắt đầu”.
Thời Thủ tướng Phan
Văn Khải, mỗi khi tổng đầu tư lên tới trên 30% GDP là lập tức Thủ tướng được
báo động. Trước năm 2006, năm có tổng đầu tư lớn nhất cũng chỉ đạt 36%. Trong
khi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ngay sau khi nhận chức đã đưa tổng mức đầu tư
lên 42% và đạt tới 44% GDP trong năm 2007. Năm 2006, tăng trưởng tín dụng ở mức
21,4% nhưng con số này lên tới 38,7% trong năm 2007. Kết quả, lạm phát cả năm ở
mức 12,6%. Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã gần như hốt hoảng. Những cú shock được
áp dụng sau đó đã làm cho nền kinh tế trở nên vô phương cứu chữa.
Đầu quý I-2008, khi
con số lạm phát lên tới gần 3% mỗi tháng, thay vì chẩn bệnh để có phương thuốc
đúng, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã buộc các ngân hàng nâng mức dự trữ bắt buộc
từ 10 lên 11%, các ngân hàng nháo nhào tìm kiếm thêm 20.000 tỷ khiến lãi suất
qua đêm thị trường liên ngân hàng mấy ngày cuối tháng 1-2008 tăng vọt lên tới
27%, trong khi đầu tháng, con số này chỉ là 6,52%.
Ngày 13-2-2008,
Ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định, buộc các ngân hàng thương mại phải mua
một lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỉ đồng. Cung tiền ngay lập tức lên tới hơn
40.000 tỉ đồng đã làm náo loạn các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng cổ phần buộc
lòng phải tăng lãi suất huy động. Sự chênh lệch về lãi suất đã khiến cho các
tổng công ty nhà nước rút tiền, đang cho vay lãi suất thấp ở các ngân hàng quốc
doanh, gửi sang ngân hàng cổ phần.
Chỉ trong ngày
18-2-2008, các tổng công ty nhà nước đã rút ra hơn 4.000 tỉ đồng. Các ngân hàng
quốc doanh, vốn vẫn dùng những nguồn tiền lãi suất thấp từ nhà nước đem cho các
ngân hàng nhỏ vay lại. Nay thiếu tiền đột ngột, vội vàng ép các ngân hàng này,
rút về. “Cơn khát” tiền mặt toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân
hàng trong những ngày này có khi lên tới trên 40%.
Lãi suất huy động
tăng, đã khiến cho các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều ngân hàng
buộc khách hàng chấp nhận lãi suất cho vay 24 - 25%. Các biện pháp chống lạm
phát của Chính phủ đã làm cho lạm phát ba tháng đầu năm 2008 lên tới
9,19%. Ngày 25-3-2008, ngân hàng Nhà nước lại khiến cho tình trạng khan
hiếm tiền mặt thêm nghiêm trọng khi yêu cầu thu về 52.000 tỉ đồng của ngân sách
đang được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm.
Từ mức trên 1000,
ngày 6-3-2008, chỉ số VN-index xuống còn 611. Cho dù Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh
Hùng cố dùng uy tín chính trị của mình để cứu vãn bằng cách tuyên bố rằng, “đầu
tư vào chứng khoán bây giờ là thắng” vì VN-index đã xuống đến đáy. Nhưng, những
ngày sau đó, VN-index liên tục lập đáy mới: Ngày 25-3-2008, 492 điểm; Ngày
5-12-2008, 299 điểm.
Chính những “đại
gia” gần gũi thủ tướng nhất lại “chết” đau thương nhất vì họ đã từng được vay
tiền dễ dàng, có dự án dễ dàng, kể cả các dự án trong khu vực chuẩn bị sáp nhập
về Hà Nội. Từ năm 2008, mỗi năm các đại gia này đã phải chịu lãi suất 24-25%/
năm chưa kể những khoản lót tay, trong khi giá trị các dự án chỉ có thể bán
được phân nửa so với thời 2007. Thay vì tìm một lối thoát cho nền kinh tế, đặc
biệt là khu vực tài chính ngân hàng, giai đoạn tái cấu trúc ngân hàng, tái cấu
trúc nợ lại là một cơ hội kiếm tiền cho nhiều đại gia thân hữu mới.
Tham nhũng chưa
phải là vấn đề lớn nhất dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chính phủ Thủ
tướng Phan Văn Khải đã từng rất nỗ lực để tạo ra một môi trường kinh doanh bình
đẳng. Ban nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải đã sát cánh nhiều năm với Tổ
thi hành Luật Doanh nghiệp. Hơn 500 loại giấy phép đã bị Thủ tướng Phan Văn
Khải bãi bỏ. Khi ông Khải rời nhiệm sở, Tổ công tác tiếp tục đề nghị bãi bỏ
thêm hàng trăm giấy phép con. Nhưng, thay vì ra quyết định, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã giải tán Ban nghiên cứu và để cho các loại giấy phép lại mọc lên
như nấm.
Có lẽ một người
được coi là bảo thủ như ông Đỗ Mười cũng không thể nào ngờ có ngày “hậu duệ”
của mình lại ký lệnh tái độc quyền nhà nước đối với vàng. Nhà nước đã từng độc
quyền vàng, những người sở hữu từ 2 chỉ trở lên từng bị coi là bất hợp pháp.
Ngày 24-5-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ký Quyết định 139, cho phép
tư nhân mở tiệm vàng với điều kiện chỉ cần ký quỹ 5 lượng. Chỉ sau hai tháng cả
nước có tới 400 tiệm vàng. Quyết định của ông Đỗ Mười được đưa ra như là một
giải pháp cộng hưởng để chống lạm phát.
Trong suốt 23 năm
tồn tại của Quyết định 139 nền kinh tế chưa bao giờ đổ tội lạm phát cho vàng.
Vậy mà bất lực trước khủng hoảng kinh tế, ngày 25-5-2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã ký nghị định 24, giành lấy quyền sản xuất vàng miếng cho nhà nước và
buộc doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng phải có vốn trên 100 tỷ đồng.
Lẽ ra ông Trương
Đình Tuyển phải từ chức đứng đầu nhóm 13 người tư vấn sau khi một quyết định
như thế ra đời. Bỏ qua các động cơ trục lợi, Nghị định 24 là vi hiến vì nó làm
cho vàng miếng không phải SJC của người dân tự nhiên mất giá. Đặc biệt, nó đi
ngược lại các cam kết WTO mà ông Tuyển đóng vai trò quyết định trong đàm phán.
Bẫy Việt Vị
Ngày 2-8-2011,
trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một buổi họp báo: “Hà Nội không
có chủ trương trấn áp người biểu tình”. Để rồi, ngày 18-11-2011, từ chỗ coi
những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà Nội ra thông báo vu cho
người biểu tình là “gây rối Thủ đô”, là có “các thế lực chống đối trong và
ngoài nước”.
Dân chúng nào biết,
tác giả bản thông báo này là thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, Phái viên của thủ
tướng đặc trách an ninh, tôn giáo. Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa
xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã đưa đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp
đọc duyệt. Cho dù không có quan chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và
những “tác phẩm báo chí” bôi nhọ người biểu tình khác vẫn được phát trên các
phương tiện truyền thông của Hà Nội. Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu tình diễn
ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ nhật.
Mấy tháng sau,
trong khi chính quyền Thủ đô bị kiện và phải mang một gương mặt xấu trong mắt
dân chúng, ngày 25-11-2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội “sớm có
luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền đã được ghi trong Hiến pháp”.
Cũng thời gian đó,
trong khi chính phủ đang đứng trước nguy cơ bị truy vấn bởi món nợ tới hạn
không trả được của Vinashin và nguy cơ sụp đổ của các ngân hàng, ông Nguyễn Tấn
Dũng đã việt vị Quốc hội khi đăng đàn nói về biển đảo. Nguyễn Tấn Dũng đã khiến
cho dân chúng tạm quên đi những vết thương kinh tế do ông gây ra khi trở thành
chính trị gia đầu tiên của Hà Nội nói “Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa
từ năm 1974”. Ngay cả Bộ chính trị cũng bị bất ngờ. Ông Dũng đã bí mật soạn bài
diễn văn này, diễn đi diễn lại nhiều lần trước khi xuất hiện ngày 25-11-2011
trong phiên họp toàn thể được truyền hình trực tiếp.
Sau bài phát biểu
ấy, nhằm chuẩn bị dư luận chống đỡ những đợt kiểm điểm trong nội bộ, thông tin
bắt đầu được rỉ tai, “phe thân Tàu đang tìm cách chống ông Tấn Dũng”. Nhóm “13”
hiện đã chuẩn bị theo đơn đặt hàng của ông Nguyễn Tấn Dũng một bài phát biểu về
nhà nước pháp quyền.
Sau khi các đại gia
gần gũi ông như Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí Dũng, bị bắt; Trầm Bê ở trong tầm
ngắm…, những ai nghĩ rằng ông Dũng đang hoảng sợ rất có thể sẽ mắc bẫy việt vị.
Ông Nguyễn Tấn Dũng rất có thể lại xuất hiện như một nhà cải cách.