Chuyện HÀ THỊ CẦU & TRẦN ĐỨC
THẢO
Tháng 3 22, 2013
Tưởng Năng
Tiến
http://www.procontra.asia/?p=1944
“Cộng sản nó giết mình hôm nay,
mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì
T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói vừa ghi. Tôi nghe mà bán tin bán
nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hoè ở Việt Nam phải trồng
bao nhiêu mới đủ, cha nội?
Mà chả chỉ riêng hoa, ở nước ta, cái (mẹ)
gì mà không thiếu nên mọi thứ vẫn thường phải phân phối theo tiêu chuẩn – ngoại
trừ huân chương, huy hiệu, bằng khen, giấy thưởng… thì mới thừa thôi. Bởi
vậy, tôi xin được có ý kiến (hơi) khác với T.T. Thích Trí Quang chút xíu:
“Cộng sản nó chôn sống mình hôm nay, mai nó mang huân chương hay giải thưởng
đến để… làm lễ truy tặng!”
Ông Trần Đức Thảo là một nạn nhân điển hình
cho cái cách chôn sống (rất) bất nhân như thế – theo như lời của một bà cụ bán nước trà ở đầu khu tập thể Kim Liên, nơi mà
triết gia của chúng ta cư ngụ cho đến gần lúc cuối đời:
Trong khu nhà
B6 đằng kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi nhếch nhác quá mấy anh
công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch,
quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe
đạp ‘Pơ-giô con vịt’ mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm
xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một
anh dở người…”
Một buổi trưa
nắng chang chang, ông ghé vào quán uống cốc nước chè xanh, tôi hỏi: “Ông đi đâu
về mà nom vất vả thế.. ế.. ế. Ông nói: Lên chợ Hàng Bè mua củi đun. Tôi hỏi:
Thế củi ông để đâu cả rồi? Ông quay lại nhìn cái ‘pooc ba ga’, mặt cứ ngẩn tò
te. Chỉ còn có sợi dây buộc! Củi nả rơi đâu hết dọc đường, chẳng còn lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần ấy tuổi
đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… (Phùng Quán – “Chuyện vui về triết gia
Trần Đức Thảo”. Ba phút sự
thực, Văn Nghệ, Sài Gòn: 2007, bản in lần thứ hai)
Nếu bạn thấy những
lời lẽ (thượng dẫn) của một bà cụ bán nước trà vô danh chưa đủ trọng lượng thì
xin nghe thêm đôi câu nữa, của một chứng nhân thế giá hơn – luật sư Trương Như Tảng:
Ông không bị tù
hay hành hạ thân xác, nhưng công an bao vây, cô lập ông không cho ai tiếp xúc… Nếu ông Thảo tiếp xúc với ai, chẳng hạn một
người bạn trên đường phố, thì người đó sẽ bị bắt giữ để điều tra.
Bề ngoài xem ra
triết gia sống cuộc đời bình thường. Nhưng thực tế ông sống như Robinson Crusoe,
hoàn toàn cô độc, mặc dầu có nhiều người ở xung quanh. Ngay họ hàng thân thích
cũng không được phép nói chuyện với ông. Đối với một trí thức như vậy là một sự
tra tấn dã man.
Ngó bộ ông Trương
Như Tảng có vẻ hơi quá lời chút xíu, chứ nếu Trần Đức Thảo bị “tra tấn dã man”
thì làm sao triết gia của chúng ta sống sót cho mãi đến năm 1991 – năm mà
ông được nhà nước tha (tào) và cho trở lại Paris, theo như tường thuật của tác
giả Minh Diện:
Bảy mươi tuổi
Trần Đức Thảo mới quay về chốn xưa. Tiếc thay thời huy hoàng của ông đã qua lâu
rồi. Rất ít người còn nhớ tới ông. Suốt 40 năm ông cô đơn bên trời Nam, giờ lại
cô đơn bên trời Tây. Khi người ta đã bỏ lỡ cơ hội thì khó mà tìm lại được.
Quay lại Pari,
Trần Đức Thảo sống tạm bợ trong căn phòng xép trên tầng 5, nhà khách của Đại sứ
quán Việt Nam .
Nhà báo Nguyễn Đức Hiền tả lại cảnh sống của ông như sau: “Một ông già ở độ
tuổi cổ lai hy, khoác chiếc áo cũ màu tím dài chấm gót, bưng bê lỉnh kỉnh mọi
thứ xoong chảo, chai lọ leo lên, leo xuống hàng trăm bậc thang tự lo lấy bữa ăn
cho mình. Ông già ấy cứ hành trình chừng mười bậc thì dừng lại, tựa người vào
hành lang đứng nhắm mắt, há miệng thở như thổi bễ.”
Một chiều mùa
Hè năm 1993, ông già ấy gục xuống tại bậc cầu thang, không bao giờ gượng đứng
dậy được nữa… Năm 2000, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về Khoa học Xã hội.
Thiệt là… có hậu!
Ít nhất thì những ngày tháng cuối đời “của
ông già ấy” cũng (có vẻ) đỡ đoản hậu hơn cuộc sống lê lết của… một bà già khác,
cùng thời, bà Hà Thị Cầu. Nhân vật này tuy có kém danh giá hơn ông Thảo (chút
đỉnh) nhưng cũng nổi tiếng như cồn, ít ra là ở phạm vi quốc nội. Trên báo Bắc Giang, phát hành vào ngày 1 tháng 4 năm 2009,
một nhà văn Việt Nam
đã viết những dòng chữ chí tình như sau về người nghệ sĩ này:
Với bà, tên
tuổi, sự nghiệp tôi đã đọc quá nhiều trên báo chí, một nghệ nhân lớn, một người
hát xẩm cuối cùng của thế kỷ, một tài sản dân gian quý báu, một nghệ sĩ nổi
tiếng không chỉ trong nước mà ở thế giới…
Và tôi choáng
váng vì không thể ngờ, một nghệ sĩ tên tuổi như vậy, báo chí ngợi ca như vậy,
các cấp quản lý thay nhau tôn vinh như vậy lại đang có cuộc sống khó khăn đến
không tin được. Ngôi nhà bà Hà Thị Cầu bé tí nằm cận kề trụ sở UBND xã Yên
Phong. Ngôi nhà bé thế lại còn chia làm hai, một nửa cho bà Cầu ở, nửa còn lại
là nhà thờ họ. Phần ở của bà lại chia đôi, phía ngoài đủ đặt cái giường đôi, bộ
bàn ghế uống nước, phía trong là nơi bà ngủ, diện tích cũng chỉ nhỉnh hơn cái
giường một chút xíu.
BBC, nghe được vào hôm 3 tháng 3 năm
2013, lặng lẽ và buồn bã đi tin: “Nghệ nhân được coi là linh hồn của hát xẩm
Việt Nam với gần 80 năm tuổi nghề, bà Hà Thị Cầu, đã qua đời tại Yên Mô, Ninh
Bình…”
Hung tin này đã khiến cho Nguyễn Quang Vinh đùng đùng nổi giận:
Một nghệ nhân
tài hoa như thế, cống hiến cho đất nước như thế, được coi là “báu vật nhân văn”
của quốc gia như thế, đã từng đào tạo, truyền nghề cho biết bao nghệ sĩ, đã nổi
tiếng không chỉ trong nước mà còn với nước ngoài…
Nhưng suốt đời
nghèo đói, suốt đời khổ sở, túng thiếu như kẻ ăn mày. Báo chí lên tiếng, dư
luận lên tiếng, những nghệ sĩ tâm huyết thay bà gõ cửa khắp nơi nhưng mặc nhiên
không ai đoái hoài, và bà – nghệ nhân Hà Thị Cầu, cho tới lúc nhắm mắt, vẫn
trong nghèo đói…
Leo lẻo ca
ngợi, leo lẻo thuyết giảng, leo lẻo leo lẻo… ở mọi cấp để rồi bỏ rơi một nghệ
nhân lớn, cay đắng hơn, còn lợi dụng tài năng, tên tuổi của bà để trục lợi cả
tiền, danh tiếng, uy tín của cá nhân mình.
Thôi nhé, bà
mất rồi, im cả đi, đừng lại ngoạc mồm “bà mất đi là địa phương mất đi một tài
năng, đất nước mất đi một nghệ nhân lớn… vô cùng đau xót”. Câm đi…
Tôi e rằng nhà văn của chúng ta không hiểu
biết về đường lối, cũng như chính sách, của Đảng và Nhà nước (rõ ràng và rành
mạch) như nhà nghiên cứu âm nhạc Trần Quang Hải. Trong bản tin của BBC(thượng dẫn) ông Hải khẳng định:
Cũng giống như
ca trù, hát xẩm đã bị ‘mất đi’ trong 50 năm vì chính quyền không coi trọng
những tài tử dân gian… hát xẩm bị coi là “hạ cấp” và chính quyền không muốn
thấy những người hát xẩm lang thang ngoài đường.
Nói cách khác là bà Hà Thị Cầu đã bị chính
quyền chôn sống từ lâu nhưng mãi đến tháng Ba năm nay mới (chịu) trút hơi thở
cuối cùng. Ngay sau đó, báo Thể thao Văn hoá (số ra ngày 06 tháng 3 năm 2013) đã
có… tin vui:
Tới dự đám tang
nghệ nhân Hà Thị Cầu, ông Vương Duy Biên – Thứ trưởng Bộ VH,TT&DL – chia sẻ
tâm nguyện cần đề nghị truy tặng cho bà danh hiệu NSND… Thời gian tới, Bộ VH,TT&DL sẽ xúc tiến
thực hiện việc này.
Thiệt là tử tế hết
sức!
Theo Wikipedia: Năm 1977 bà Hà Thị Cầu là tác giả của
bài Theo Đảngtrọn đời.
Tôi sợ rằng vì mù chữ, không đọc được Đề
cương văn hoá Việt Nam, nên (có lẽ) mãi cho đến khi nhắm mắt người được
coi là “báu vật nhân văn sống của Việt Nam” vẫn không biết rằng toàn
Đảng không ai thiết tha hay mặn mà gì lắm với tình cảm (thắm thiết) mà bà đã
dành cho nó.
Những người “hát
xẩm bị coi là hạ cấp,” đã đành, thế còn triết gia thì sao? Giới người này ở bên
nước bạn, cũng như ở nước ta, cả hai Đảng đều coi họ không bằng … cục cứt!
Và nói nào ngay,
đối với Đảng thì giới người nào cũng vậy – bất kể là nông dân, công nhân,
thương nhân, hay trí thức. Tất cả đều chỉ là phương tiện, được sử dụng tùy theo
lúc mà thôi.
Sau đó đều bị mang
chôn sống ráo. Nhà nước đợi cho đến khi họ tắt thở sẽ mang bằng khen hay giải
thưởng đến làm lễ truy tặng. Những cái lễ này, cũng tựa như những tấm giẻ lau,
dùng để lau sạch máu hay nước mắt (hoặc cả hai) cho nạn nhân của chế độ hiện
hành.
_________________
Ảnh 1: Hình chụp từ
tạp chí Nghiên cứu Đông Dương. Nguồn: vnu.edu
Ảnh 2: Báu vật nhân văn sống của Việt Nam , hình chụp trước tư gia. Nguồn: vnexpress.net
Ảnh 3: Bà Hà Thị
Cầu. Nguồn: wikipedia
© Tưởng Năng Tiến
&pro&contra