Làm báo thời MS-DOS
http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/doisong/109152/Lam-bao-thoi-MS-DOS.html
Nguyễn Vạn Phú
Mới hôm
rồi tình cờ thấy một bàn máy đánh chữ cũ kỹ nằm ở góc phòng khách nhà người
quen, ký ức về những ngày làm báo cách đây hơn 20 năm lại quay về. Tháng
9-1991, tôi vào làm cho tờ Vietnam Investment Review (VIR) khi tờ báo này chuẩn
bị ra mắt số đầu tiên. Đây là tờ tuần báo bằng tiếng Anh chuyên về kinh tế đầu
tiên của Việt Nam do Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư cùng một số nhà báo
người Úc thực hiện. Còn chừng ba tuần nữa là đến ngày ra báo thế mà các tay nhà
báo Úc nhởn nhơ như không. Nick Mountstephen rủ tôi ra Lê Lợi mua đồ nghề. Loay
hoay một hồi chúng tôi chở về chừng bốn chiếc bàn máy chữ loại xài rồi.
Các bạn phóng viên trẻ giờ này chắc không
hình dung nổi, đến thập niên 1990 rồi mà nhà báo vẫn phải viết tay là chủ yếu,
ai dùng bàn máy chữ để viết tin là đã “tân tiến” lắm rồi. Mua máy chữ hôm
trước, hôm sau chúng tôi lại phải ra nhà sách mua đủ loại bút xóa để “tẩy tẩy,
xóa xóa” chứ không lẽ cứ gõ vài dòng là quẳng vào thùng rác, thay giấy khác.
Trong tòa soạn lúc ấy có anh Hoàng Ngọc
Nguyên, là cây bút chủ lực của VIR trong những ngày đầu nhưng vẫn giữ vai trò
người xuất bản tờ Saigon News Reader bán chạy trong giới đầu tư nước ngoài ở
Sài Gòn dạo đó. Anh Nguyên là “phù thủy” trong sử dụng bàn máy chữ để “sản
xuất” tờ báo này - một mình anh vừa làm phóng viên, biên dịch viên, người dàn
trang, người gõ bài - tất cả thực hiện trên bàn máy chữ. Cái tài của ảnh là làm
sao canh chừng để tin chấm dứt đúng cột, đúng khuôn khổ. Thậm chí vì tờ báo chỉ
bằng khổ giấy A4 nhưng cũng chia thành hai cột, anh vừa gõ tin của cột này, vừa
gõ tin của cột bên kia! Sản xuất xong tờ báo (thường là buổi sáng, dịch tổng
hợp mọi tin kinh tế chính của báo trong nước), anh cho người photocopy thành
mấy trăm bản và phân phối đến các văn phòng đại diện các công ty nước ngoài
khắp thành phố. Bảo đảm giờ có đủ phương tiện trong tay, kể cả phần mềm dàn
trang trên máy tính, khó lòng kiếm ra người có thể làm ra tờ báo trong vòng mấy
tiếng đồng hồ như anh Nguyên.
VIR cũng là nơi đầu tiên mua tin các hãng
thông tấn nước ngoài, tôi nhớ hình như mua tin của AFP trước tiên. Lúc đó vì
chưa có máy tính, chỉ có máy fax, thế là tin từ AFP liên tục đổ về, chạy ra ào
ào từng cuộn giấy. Lúc đầu tôi hăm hở đọc hết vì chưa bao giờ có dịp tiếp cận
tin nhiều và nóng hổi như thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau là đầu hàng
không kham nổi.
Chất liệu đầu vào là tin bài đánh máy hay
nhận bằng fax nên khi đưa xuống nhà in, nhân viên phòng máy phải gõ vào một lần
nữa. Nhiệm vụ của bọn tôi là ngồi bên cạnh để sửa lỗi vì nhân viên đâu rành
tiếng Anh, gõ sai là chuyện thường. Nhưng cũng nhờ thế bọn tôi tiếp xúc rất sớm
với máy tính, dù chỉ là gõ văn bản.
Cũng may là một thời gian ngắn sau, các tay
nhà báo người Úc không biết kiếm đâu ra được mấy máy vi tính đời 286 và 386,
màn hình đơn sắc, có cái không có ổ cứng. Muốn khởi động, trước tiên phải bỏ
vào ổ đĩa mềm loại 5,25 inch đĩa chương trình MS-DOS để chạy. Máy chạy rồi mới
lấy đĩa ra, bỏ đĩa chương trình Word Perfect vào. Lúc đó Microsoft Word chưa
thịnh hành, ai nấy đều dùng Word Perfect 5.1. Cũng chẳng ai bày, tôi mày mò bấm
F1 (chương trình giúp đỡ) và tự học các phím tắt để sử dụng phần mềm này viết
bài. Các bạn trẻ ngày nay ắt cũng khó hình dung màn hình máy tính lúc đó không
phải ở dạng “What you see is what you get” như hôm nay, nó chỉ là một màn hình
đen hay xanh với con trỏ là dấu gạch ngang nhấp nháy. Phải học thuộc các lệnh
để trình bày và xử lý văn bản. Tính toán thì có Lotus 1-2-3 chứ chưa có Excel,
cơ sở dữ liệu thì dùng dBase chứ đâu đã có Access.
Trưa, lúc mọi người chợp mắt, tôi tò mò mở
máy ra “vọc”, cứ thử hết file exe này đến file com khác. Nhiều lúc chỉ gõ lệnh
cls để khoái trá thấy màn hình dọn sạch trơn. Thấy file command.com “không dùng
làm gì cả”, bèn xóa (đây là file chủ chốt của hệ điều hành MS-DOS), tiện tay
xóa luôn các file autoexec.bat và config.sys vì cứ nghĩ để chúng làm gì cho
chật chội. Dại dột đến thế, may nhờ có các anh kỹ thuật viên dưới phòng máy nhà
in lên phục hồi giùm.
Có nhiều chuyện cười ra nước mắt như thế -
chẳng hạn một sếp VIR một hôm kêu ầm lên là máy hỏng, kỹ thuật phải vào sửa
gấp. Hóa ra hôm trước ổng nhét ổ đĩa mềm vào, viết bài và cuối ngày tắt máy
quên lấy đĩa ra. Khi mở máy trở lại vì ổ đĩa mềm chỉ chứa dữ liệu chứ không
phải ổ đĩa khởi động nên máy đứng cứng ngắc, làm sao chạy được. Lúc đó máy tính
là một cái gì đó người ta phải đối xử như “nâng trứng, hứng hoa”; ai cũng nghĩ
phải xây phòng riêng, lắp máy lạnh máy mới chạy! Ngày nay khi ổ cứng máy tính
chừng 500GB, RAM 4GB, tốc độ xử lý trên 2GHz là chuyện thường có lẽ ít ai ngờ
có thời máy tính chỉ có ổ cứng 30MB, tốc độ xử lý chỉ có 6MHz, còn RAM bao
nhiêu thì chẳng ai biết nữa.
Nhờ có máy tính, công đoạn nhờ nhân viên
nhà in gõ lại coi như không cần thiết nữa nhưng tôi và Alex McKinnon, một nhà
báo Úc rất trẻ, vẫn phải thường xuyên xuống nhà in để theo dõi nhân viên dàn
trang. Lúc đó phần mềm dàn trang phổ biến là Ventura, chạy chậm như rùa. Báo
chí Việt Nam đã chuyển từ sắp chữ chì sang dàn trang trên máy tính nhưng tít
vẫn phải vẽ tay và co chữ, font chữ thì rất linh hoạt, bài dư một chút thì bung
ra, thiếu một chút thì co lại, bất kể nguyên tắc trình bày báo. Tờ VIR với
những nguyên tắc không thể du di phải cử người xuống phòng máy để hỗ trợ nhân
viên dàn trang cắt tin bài hay chọn bài khác cho vừa chỗ chứ không co dãn cỡ
chữ. Cũng nhờ vậy mà học sơ qua Ventura rồi sau này là PageMaker và
QuarkXPress.
Những năm đó, công nghệ thông tin có những
bước tiến nhảy vọt, máy tính lên đời 386, 486 và cuối cùng Windows 3.1 ra đời.
Một điều lạ là máy mạnh lên nhưng phần mềm ngày càng nặng nề nên cứ phải nâng
cấp phần cứng liên tục. Tôi nghĩ cả thế giới trong một thời gian dài làm ra bao
nhiêu là đổ tiền cho Bill Gates và các hãng phần cứng, chẳng lạ gì anh chàng
này trở thành tỉ phú trong một thời gian ngắn. Còn nhớ đó là thời gian vàng son
của máy PC, cứ vài tháng là có con chip mới, cuộc đua tốc độ xử lý cứ mải miết
chạy, đến mấy năm gần đây mới tạm dừng.
Có lẽ cũng vì lần đầu tiên tiếp xúc với
công nghệ, giới làm báo lúc đó có sự tò mò, thích tìm tòi ứng dụng công nghệ
vào công việc mà dường như thiếu vắng trong giới phóng viên trẻ ngày nay. Tôi
nhớ lúc đó một chuyên viên kỹ thuật người Úc đang xây dựng cơ sở dữ liệu cho toàn
bộ các số báo VIR vào một đĩa CD, truy xuất dễ dàng. Lúc rảnh rỗi anh này giúp
bọn tôi viết các macro để tự động hóa các khâu biên tập. Các bạn biên tập viên
đều biết bài nhận từ nhiều nguồn sẽ có nhiều cách viết khác nhau nên việc đầu
tiên là chuyển hết về phong cách mà tờ báo đang áp dụng. Anh thu gom hết mọi
biến thể, mọi sửa đổi mà các biên tập viên chỉnh sửa bài vào thành một macro
(tập hợp các lệnh thực hiện tự động) chạy ngay trong MS Word. Biên tập viên
nhận bài, chỉ cần bấm một nút, ngay lập tức máy sẽ tự động rà soát biên tập kỹ
thuật cho mình - rất nhanh và rất tiện.
VIR in được hai số ở TPHCM thì phải chuyển
ra in ngoài Hà Nội. Nick, Alex và tôi khăn gói ra thủ đô, hành lý lúc đó chỉ là
cây thước để vẽ ma két báo. Mọi chuyện lặp lại với nhà in báo Hà Nội mới. Mấy
tháng sau, bộ máy tạm ổn, tôi quay về TPHCM thì nảy sinh việc liên lạc bài vở
giữa hai đầu đất nước. Một thời gian dài chúng tôi phải dùng fax, lại phải quay
về cách nhờ nhân viên phòng máy gõ lại bài đã gõ trong Sài Gòn. Sau một thời gian
mày mò, bọn tôi mua hai cái modem, nối với đường dây điện thoại. Cách làm thật
thủ công, bây giờ ai nhìn vào ắt phải cười ngất. Sau khi thu gom chừng năm bài
từ văn phòng TPHCM, tôi gọi điện cho Lê Quốc Vinh, phóng viên ngoài Hà Nội, hai
bên cùng mở modem lên và quy ước, “một, hai, ba” cùng nhấn enter để đường dây
thoại chuyển thành đường dây data, hai modem sau một hồi rè rè, rít rít đã bắt
tay được với nhau và hai máy mới bắt đầu chuyển bài cho nhau. Thủ công là vậy
nhưng “phát hiện” này giúp tiết kiệm cả đống thời giờ gõ lại bài cũng như tránh
sai sót chính tả.
Tiếp theo đó là sự xuất hiện dịch vụ thư
điện tử (e-mail). Thoạt tiên chỉ có Netnam (anh Trần Bá Thái) và Teltic (anh
Nguyễn Anh Tuấn) cung cấp, mỗi ngày hai nơi này nối mạng với máy chủ ở Úc mấy
lần để nhận thư và gửi thư. Tôi nhớ lúc đó anh Nguyễn Anh Tuấn, sau này làm
Tổng biên tập tờ VietNamNet có vào Sài Gòn chơi và cho tôi một tài khoản
e-mail. Từng cá nhân mỗi khi muốn nhận thư cũng phải truy cập một số điện thoại
nào đó, modem cũng rít lên từng hồi trước khi kết nối vào được mạng máy chủ.
Tuy nhiên, e-mail là bước tiến làm thay đổi
công nghệ làm báo mạnh mẽ (nên nhớ lúc đó chưa có Internet). Bọn tôi học được
nhiều thủ thuật sử dụng e-mail mà nay hóa ra thừa thãi. Ví dụ mặc dù chưa có
Internet, vẫn có thể lấy được tin bài từ một trang web bằng cách gửi e-mail đến
một địa chỉ nào đó, trong tiêu đề ghi một dòng lệnh nào đó. Nhờ e-mail, nhà báo
nay đã có thể gửi thư phỏng vấn người ở tuốt bên Mỹ hay bên Anh. Nhờ e-mail
việc gửi bài thủ công theo kiểu “một, hai, ba” chúng ta cùng bấm enter đã biến
mất.
Sau này cũng có nhiều công nghệ khác biến
mất như thế. Chẳng hạn trong một thời gian dài, mặc dù đã dàn trang trên máy
tính, vẫn phải in ra trên giấy can và nhân viên nhà in vẫn phải cắt dán thủ công
toàn bộ tờ báo lên bảng súp-po. Sau này nhà in chuyển thẳng từ file nên nghề
cắt dán (montage) này đã mai một. Nhớ khoảng năm 1989, tôi có dịp đưa một nhà
báo nước ngoài đi chụp ảnh ở Huế. Lúc đó đám cưới chụp một hai cuốn phim màu là
sang lắm rồi nên các bạn tưởng tượng tôi đã há hốc như thế nào khi anh chàng
phóng viên ảnh này chơi một ngày hết 40 cuốn phim, loại 36 tấm mỗi cuộn. Nay
máy kỹ thuật số chụp bao nhiêu không ai để ý và có lẽ mọi người cũng dần quên
cuộn phim Kodak ngày xưa.
Năm 1997 lúc tôi chuyển về làm cho tờ
Saigon Times Daily, công nghệ đã khá phổ biến. Chúng tôi mua tin của Reuters và
truy cập tin bằng đường dây riêng. Lúc đó Reuters có gói dịch vụ Business
Briefing thật tuyệt vì ngoài tin của Reuters người dùng có thể truy cập mấy ngàn
tờ báo khắp thế giới, tin tức nóng hổi. Nay có Internet thì chuyện đọc báo khắp
nơi là chuyện bình thường nhưng lúc đó, cứ tưởng tượng ngồi ở Sài Gòn mà có thể
nhảy vào đọc tờ Time hay Washington Post mới phát hành là chuyện khó hình dung.
Bọn tôi lúc đó cũng ăn gian, ví dụ đưa tin về hội nghị thượng đỉnh ASEAN ăn đứt
báo bạn vì tiếp cận và tham khảo đủ loại tin bài mà phóng viên báo khác đưa lên
mạng Business Briefing.
Cuối năm 1997, Việt Nam chính thức kết nối
Internet. Ngay năm sau đó chúng tôi tổ chức cuộc thi thiết kế trang web trên tờ
Saigon Times Daily mặc dù không biết gì nhiều về thiết kế web. Giám khảo là
những nhân vật tin học nổi tiếng lúc đó như anh Hoàng Minh Châu của FPT, chị
Đồng Thị Bích Thủy (Đại học Khoa học Tự nhiên) và hãng IBM đồng ý tài trợ giải
thưởng cuộc thi là máy tính xách tay IBM, lúc đó có giá chừng 3.000 đô la! IBM
còn cho mượn máy mạnh để giám khảo sử dụng chấm bài cho nhanh nữa. Bên cạnh
nhiều thí sinh dùng màu sắc lòe loẹt, chữ chớp chớp, uốn lượn... vẫn có những
người thiết kế các trang web đơn giản mà lại đẹp và sang trọng. Có lẽ nhiều bạn
thí sinh thời đó đã theo nghề thiết kế web cho đến nay. Chẳng bao lâu sau hàng
ngàn trang web Việt Nam lần lượt xuất hiện.
Nhìn lại, hoàn toàn không có gì tiếc khi
phải bỏ công sức học nhiều lệnh trong DOS mà nay có ai xài nữa đâu, cũng không
có gì ganh tỵ khi ngày xưa phải chật vật với ổ đĩa 1,2MB thường xuyên bị hỏng
hóc so với các thanh USB vài ba GB mà phóng viên nào ngày nay đều phải có. Lúc
đó để cài Microsoft Word phiên bản mới nhiều lúc cần đến 8, 9 đĩa mềm, mà có
lúc cài đến đĩa số 7 nó lại báo hư mới tức. Chặng đường làm quen với công nghệ
là một phần của nghề báo thời mở cửa - không thể đổi cho bất kỳ món gì - dù đó
là chiếc kính Google Glass hay nắm xôi của thằng Bờm.