Quan hệ Việt – Trung:
Thực tế bẽ bàng hơn nhiều
Nguyễn Gia
Kiểng
“…Nếu ở Việt Nam có một
người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó
chính là Lê Đức Anh…”
*****************
https://vietsuky.wordpress.com/2012/08/31/155-quan-he-viet-trung-thuc-te-be-bang-hon-nhieu/
****************
Giờ này, khi mà
nhiều người nghĩ và tin rằng Việt Nam chỉ còn một chọn lựa là ra khỏi thế lệ
thuộc Trung Quốc và nhanh chóng tiến đến thế đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ và
các nước dân chủ, chúng ta cần nhận định lại quan hệ Việt Trung một cách chính
xác hơn. Lý do là vì sự thực còn phũ phàng hơn nhiều người nghĩ. Và nếu quá khứ
có khả năng tiết lộ những gì có thể sẽ tới thì chúng ta phải rất cảnh giác nếu
không muốn hụt hẫng một lần nữa.
Cho tới nay, theo
cái nhìn của nhiều người, Trung Quốc, sau khi thất bại trong chiến tranh biên
giới 1979, đã cố lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ và đã thành công;
Đại Hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã là một bước đổi mới đầy hy vọng không
may bị khựng lại và đảo ngược; Nguyễn Văn Linh là con người của một cách canh
tân dang dở; trong nội bộ ĐCSVN đã có đấu tranh giữa hai phe canh tân thân
phương Tây và bảo thủ thân Trung Quốc và sau cùng phe bảo thủ đã thắng v.v.
Nhưng sự thực rất khác.
Cái nhìn này không giải thích được một cách thuyết phục tại sao
ĐCSVN đã có thể đổi hẳn chính sách đối với Trung Quốc từ thế tử thù sang thế
chư hầu ngoan ngoãn mà không gây ra một chấn động lớn, bằng cớ là cho đến nay
ít người có thể nói một cách quả quyết ĐCSVN đã quyết định thay đổi thái độ đối
với Trung Quốc vào lúc nào, hay tại sao mặc dù Việt Nam hết sức chiều lòng Trung
Quốc mà Trung Quốc lại cứ tiếp tục hạ nhục và chèn ép Việt Nam.
Lý do là vì nó vẫn nằm trong một logic bình
thường theo đó mọi chính quyền trước hết mưu tìm quyền lợi cho đất nước mình,
họ có lầm lẫn hay không là chuyện khác. Logic này không đúng trong trường hợp
của quan hệ Việt – Trung như chúng ta sẽ thấy.
Nhìn lại quan hệ
Việt – Trung đòi hỏi một phân tích thấu đáo những gì đã xảy ra, điều này không
dễ vì sự đảo ngược quan hệ Việt Trung đã diễn ra một cách bí mật trong nội bộ
của nhóm cầm quyền cao nhất trong đảng cộng sản, nghĩa là bộ chính trị (BCT) và
ban bí thư (BBT), ngay cả tuyệt đại bộ phận đảng viên cao cấp cũng không biết.
Hơn nữa nó lại chủ yếu được quyết định qua
những thảo luận miệng trong tập đoàn lãnh đạo mà các biên bản hoặc không có
hoặc vẫn còn được giữ kín. Trong hoàn cảnh đó ta chỉ có thể dựa vào hồi ký của
những người trong cuộc cuối đời hoặc có những tâm sự muốn nói ra hoặc có những
ân oán giang hồ muốn thanh toán.
Tập Hối Ức và Suy Nghĩ của
Trần Quang Cơ là một tài liệu quí. Ít ai có điều kiện để theo dõi biến chuyển
trong quan hệ Việt – Trung bằng ông. Ông chủ trì nhóm CP87 một nhóm nghiên cứu
chiến lược đối ngoại của đảng vào giai đoạn chuyển hướng này. Ông cũng là thứ
trưởng đặc trách vấn đề Campuchia, vấn đề gai góc nhất giữa Việt Nam và Trung
Quốc vào lúc đó. Ông đại diện Việt Nam đàm phán với đại diện Trung Quốc Từ Đôn
Tín vào tháng 6-1990, cuộc đàm phán gay go cuối cùng trước khi chính quyền cộng
sản Việt Nam thực sự đầu hàng, đúng ra là được Trung Quốc cho phép hàng phục.
Quan trọng hơn, Trần Quang Cơ là một trong những người hiếm hoi có kiến thức về
thế giới và bang giao quốc tế, một khả năng mà không ai trong số những lãnh tụ
cộng sản cao nhất có. Tuy vậy ông Cơ chỉ là một người thừa hành ngoan ngoãn.
Nếu đôi khi ông có những tâm sự u uất thì đó cũng chỉ là những trăn trở của một
tôi trung.
Trần Quang Cơ không có cái nhìn của người
lấy quyết định, do đó ông quan tâm trước hết đến những gì thuộc phần nhiệm của
mình. Vì vậy trong hồi ký này các sự kiện không được chọn lựa và sắp xếp theo
tầm quan trọng đối với chính sách đối ngoại mà theo tầm quan trọng của chúng
đối với cá nhân ông. Ông kể khá chi tiết những thảo luận về giải pháp Campuchia
và những cuộc phỏng vấn của ông với các báo dù chúng chỉ có một giá trị rất
tương đối nếu ta muốn tìm hiểu động cơ và não trạng của những người quyết định
chính sách của Việt Nam
vào lúc đó. Những điều Trần Quang Cơ kể lại vì vậy cần được hội nhập vào dòng
thời sự của cả một giai đọan dài mới có giá trị giải thích và soi sáng.
Trước hết hãy nhìn
lại một cách tổng quát quan hệ Việt Trung.
Một cách ngắn gọn
có thể nói cho tới cuối thâp niên 1960 ĐCSVN đã giữ được thế cân bằng của một
đứa em ngoan giữa anh cả Liên
Xô và anh hai Trung Quốc, dù có
phần gần với Trung Quốc hơn vì lúc đó Liên Xô không khuyến khích cuộc chiến
chinh phục miền Nam mà ĐCSVN coi là mục tiêu sống còn. Năm 1957 Liên Xô còn đề
nghị cho cả hai miền Nam và
Bắc Việt Nam
vào Liên Hiệp Quốc.
Nhóm “xét lại chống đảng” chung quanh ông
Hoàng Minh Chính đã bị đàn áp thẳng tay vì bị tình nghi là theo đường lối “xét
lại” của Khruchev. Tuy vậy sau khi triệt hạ xong nhóm bị coi là thân Liên Xô
này, ban lãnh đạo ĐCSVN, đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, vẫn duy trì quan hệ
mật thiết với Liên Xô. Thế cân bằng này đã dần dần thay đổi sau khi Brezhnev
lên thay Khruchev (tháng 10-1964) và chọn đường lối cứng rắn hơn trong chiến
tranh lạnh, trong khi Trung Quốc suy yếu vì những tranh chấp nội bộ mà cao điểm
là cuộc “Đại Cách Mạng Văn Hóa” không còn khả năng để yểm trợ đắc lực cuộc
“chiến tranh giải phóng miền Nam” của Hà Nội nữa. Sang đầu thập niên 1970, khi
xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô trở thành dữ dội và Trung Quốc rõ
ràng tìm cách bắt tay với Hoa Kỳ (Kissinger bí mật sang Bắc Kinh tháng
6-19971 chuẩn bị cho Nixon sang thăm Trung Quốc tháng 2-1972 mà kết quả là
Tuyên Ngôn Thượng Hải mở đầu tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước),
Hà Nội chọn đứng hẳn về phía Liên Xô, và quan hệ Việt Trung dần dần chuyển từ
bạn sang thù.
Năm 1976 Đảng Cộng Sản Trung Quốc không gửi
phái đoàn tham dự Đại Hội IV của ĐCSVN. Nước Việt Nam thống nhất
chọn toàn bộ mô hình tổ chức Đảng và Nhà Nước của Liên Xô. Trung Quốc xúi dục
và hỗ trợ chính quyền Khmer Đỏ gây chiến với Việt Nam, Việt Nam đem quân đánh
đổ chế độ Pol Pot tháng 12-1978, một tháng sau khi gia nhập khối COMECON và ký
xong hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô.
Trung Quốc đem quân tấn công tàn phá các
tỉnh biên giới phía Bắc để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Các báo đài của
hai bên mạt sát nhau thậm tệ. Trung Quốc bới móc đời tư để bôi bẩn Hồ Chí Minh
trong khi Việt Nam lố bịch hóa Mao Trạch Đông như một bạo chúa quê mùa lỗ mãng
không tắm, không đánh răng, khạc nhổ bừa bãi và mắc bệnh tim la. Nhân dân hai
nuớc được huy động để xuống đường lên án đối phương hàng ngày.
Chính quyền CSVN xua đuổi người Việt gốc
Hoa.
Năm 1980 hiến pháp Việt Nam được sửa
đổi để thêm vào lời nói đầu một đoạn tuyên chiến với Trung Quốc. Trong đại hội
đảng V, tháng 3-1982, bản điều lệ của ĐCSVN cũng được sửa đổi với lời nói đầu
đề cao cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung như một chiến công lịch sử oanh
liệt. Nguyễn Văn Linh, người có công lớn trong cuộc “chiến tranh giải phóng
miền Nam” bị loại khỏi bộ chính trị vì lập trường thân Trung Quốc.
Nhiều công thần bị loại chỉ vì có tội là
người Việt gốc Hoa.
Chiến tranh biên giới giữa hai nước vẫn
tiếp tục. Thế thù địch đạt đến cực điểm.
Thế rồi, một cách
lặng lẽ nhưng nhanh chóng và quả quyết, tình thế đã thay đổi hẳn. Việt Nam trở thành
một chư hầu khép nép của Trung Quốc. Thay đổi đã diễn ra như thế nào và vào lúc
nào?
Mặc dù tình hữu
nghị Việt – Trung đã nhạt dần và hầu như không còn gì vào thời điểm Đại Hội IV
tháng 12-1976 nhưng ngòi nổ đã đưa đến xung đột vũ trang giữa hai nước là cuộc
chiến Campuchia trong đó cả hai bên đều có những mưu tính không thú nhận. Cuộc
chiến khởi đầu tháng 4-1977 khi quân Khmer Đỏ, với sự hỗ trợ và xúi dục của
Trung Quốc, tấn công các tỉnh biên giới phía Tây Nam. Cuối năm 1978 Việt Nam
đem quân đánh chiếm Campuchia, lập nên chính quyền Heng Samrin – Hun Sen và chỉ
rút quân năm 1989 trước áp lực quốc tế, đặc biệt là áp lực Trung Quốc.
Với thời gian người
ta có thể nhận thấy là vào thời điểm 1977 chế độ Pol Pot là một gánh nặng cho
Trung Quốc vào lúc mà Đặng Tiểu Bình muốn tìm kiếm sự hợp tác của Hoa Kỳ và các
nước dân chủ. Chế độ diệt chủng Pol Pot quá hung bạo và bị cả thế giới lên án như
một bọn quỉ sứ, nhưng nó cũng là một chư hầu của Trung Quốc và vì thế nó khiến
Trung Quốc cũng bị lên án lây.
Còn gì tốt hơn cho Trung Quốc là chế độ Pol
Pot bị Việt Nam
tràn ngập?
Trung Quốc bớt được một gánh nặng và Việt
Nam, kẻ thù đáng ghét nhất của Trung Quốc, bị thế giới nhìn như một mối nguy
cho vùng Đông Nam Á và bị cô lâp. Ngược lại chế độ CSVN cũng muốn đánh gục
chính quyền Pol Pot và dựng lên một chính quyền chư hầu tại Campuchia. Lúc đó
những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đang say men chiến thắng. Họ
đặt điều kiện để cho phép Mỹ được bình thường hóa quan hệ với Việt Nam .
Họ tưởng mình vĩ đại, chủ nghĩa Mác-Lênin
nhất định toàn thắng và sắp toàn thắng đến nơi, chủ nghĩa tư bản đang dẫy chết.
Ý đồ tái lập Liên Bang Đông Dương như một
không gian Việt Nam nới rộng là có thực chứ không phải chỉ là một bịa đặt vu
khống của Trung Quốc, dù danh xưng “Liên Bang Đông Dương” không được sử dụng.
Trong những năm kế tiếp cuộc xâm lăng Campuchia không ngày nào các báo đài Việt
Nam
không đưa tin về “ba nước Đông Dương”.
Một định chế được thành lập và thường được
nhắc tới là “Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương”. Cụm từ “ba nước Đông
Dương” được đưa vào lời nói đầu của hiến pháp 1980 cùng cụm từ “bọn bá quyền
Trung Quốc”. Một danh xưng được đề nghị lúc đó là KALAVI (Kampuchia, Lào, Việt Nam ) để chỉ
thực thể bao gồm ba nước thay cho cụm từ Đông Dương.
Chính sách khôn
ngoan cho Việt Nam
vào lúc đó là chỉ đẩy lùi và đánh tê liệt quân Khmer Đỏ nhưng không tràn vào
chiếm đóng Campuchia. Như thế Trung Quốc sẽ không khạc được khúc xương Khmer Đỏ
và sẽ tiếp tục bị thế giới lên án như là quan thày của chế độ diệt chủng gớm
ghiếc Pol Pot. Nhưng chính sách này ban lãnh đạo ĐCSVN không hề nghĩ đến. Họ
đang say men chiến thắng và tự đặt cho mình sứ mạng cao cả là làm đội tiên
phong kiên cường của phong trào cộng sản thế giới do Liên Xô lãnh đạo mà theo
họ thắng lợi đã gần kề.
Hơn nữa họ cũng tin một cách mù quáng vào
sức mạnh của Liên Xô và họ tin Liên Xô thừa sức che chở cho họ. Tháng 11-1978
Việt Nam gia nhập khối COMECON
và ký hiệp ước liên minh quân sự với Liên Xô, một tháng sau quân Việt Nam tràn vào
Campuchia. Các biến cố kế tiếp nhau theo một kế hoạch. Vào thời điểm này tuy
kinh tế Việt Nam đang suy sụp bi đát – trong các tiệm ăn người ta cân
từng bát cơm – và Hoa Kỳ không còn sẵn sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao
không điều kiện nữa, nhưng niềm tin vào “chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách
thắng” vẫn còn nguyên vẹn vì ảnh hưởng của Liên Xô vừa mở rộng một cách ngoạn
mục. Trong vòng năm năm, từ 1975 đến 1980, một loạt quốc gia theo nhau rơi vào
quỹ đạo Liên Xô -Việt Nam, Lào, Somalia, Yemen, Ethiopia, Granada, Nicaragua,
Angola, Afghanistan… Chính sự phình to này đã khiến Liên Xô kiệt quệ và sụp đổ
nhanh chóng sau đó nhưng trong nhất thời nó khiến ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam mê cuồng
đến mất trí. Trong khi đó Trung Quốc dưới Đặng Tiểu Bình, ngược lại, dồn mọi cố
gắng để tranh thủ sự hợp tác của phương Tây và khai thác triệt để thái độ hung
hăng đắc thắng của Việt Nam
để xuất hiện như một lực lượng bảo vệ hòa bình tối cần thiết tại Đông Nam Á.
Đặng Tiểu Bình không ngần ngại tuyên bố “Trung Quốc là NATO ở phương Đông,
Việt Nam là Cuba ở phương
Đông”. Thực tế đã cho
thấy Trung Quốc khôn ngoan bao nhiêu thì Việt Nam khờ dại bấy nhiêu. Khi Trung
Quốc tấn công Việt Nam tháng 2.1979, trừ Liên Xô và một vài đồng minh, thế giới
gần như cho rằng đây là hành động đúng và cần thiết.
Trung Quốc không
phải chỉ đã tấn công để “dạy cho Việt Nam một bài học” rồi thôi. Quân
Trung Quốc vẫn còn liên tục tấn công vào Việt Nam sau đó. Đã có hai đợt tấn công
lớn sau 1980, đợt đầu trong hai tháng 1 và 2.1982, đợt sau trong từ tháng 4 đến
tháng 7.1984. Đợt sau cùng này đặc biệt dữ dội, trong đó có trận Lão Sơn (hay
Cao Điểm 1509, thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang). Nhiều tài liệu Trung Quốc nói
rằng ba quân đoàn của họ đã đánh lui và gây thiệt hại nặng cho ba sư đoàn Việt Nam
trong trận này.
Lão Sơn ngày nay đã thuộc về Trung Quốc.
Trận này được nhớ tới như là một chiến công
lớn của quân đội Trung Quốc. Ngay sau trận đánh tổng bí thư Hồ Diệu Bang đã đến
khen thưởng binh sĩ Trung Quốc. Trong Thế Vận Bắc Kinh 2008 trường đua xe đạp
được đặt tên là Lão Sơn.
Hoàn cảnh Việt Nam lúc đó hoàn toàn tuyệt vọng,
kinh tế sụp đổ, sa lầy tại Campuchia và bị cả thế giới lên án. Liên Xô đã không
cứu giúp còn khuyên Việt Nam
nên hòa với Trung Quốc. Lúc đó chính Liên Xô cũng đang tìm cách bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc – các cuộc thương luợng giữa hai bên đã bắt
đầu từ năm 1982 – nên không thể có vấn đề Liên Xô giúp Việt Nam đánh nhau
với Trung Quốc. Hơn nữa, tình trạng bi đát của Liên Xô ngày càng rõ rệt: kiệt
quệ về kinh tế, sa lầy về quân sự tại Afghanistan và chao đảo ngay trong
nội bộ. Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagan đang phục hồi một cách ngoạn
mục và quả quyết đánh sụp Liên Xô. Reagan thản nhiên gọi Liên Xô là “Đế Quốc Ác
Quỷ” (Evil Empire) và thách thức chạy đua võ trang trong khi Liên Xô đã kiệt
quệ. Trong các nước vừa lọt vào quỹ đạo Liên Xô các lực lượng chống cộng phản
công dữ dội và ngày càng thắng thế. Andropov, kế vị Brezhnev từ tháng 11.1982,
nhìn nhận tình trạng nguy ngập và tuyên bố nhu cầu cải tổ toàn diện, điều mà
sau đó Gorbachev sẽ làm nhưng cũng không cứu được Liên Xô. Phải hiểu rằng ban
lãnh đạo cộng sản Việt Nam
đã rất hốt hoảng.
Cũng cần phải nói lại rằng chiến tranh biên
giới hoàn toàn không phải là một chiến thắng cho Việt Nam . Trong cả
ba đợt tấn công Việt Nam đã
tổn thất hơn hẳn Trung Quốc; trong đợt cuối cùng trận Lão Sơn là một thất bại
nặng cho Việt Nam .
Cái ảo tưởng chiến thắng chỉ là một sản
phẩm tuyên truyền của chính quyền CSVN.
Trung Quốc đã không cải chính tuyên truyền
này vì nó có tác dụng che giấu sự kiện họ lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam : Việt Nam thắng trận thì không thể mất
đất. Nhưng sự thực là Việt Nam
đã mất nhiều đất, trong đó có Lão Sơn, Bản
Giốc , Nam
Quan. Có thể lấy tháng 7.1984
như là thời điểm mà Hà Nội , sau khi thua trận Lão Sơn, không còn sức để phản
công và cũng không còn chỗ dựa Liên Xô, đã quyết định cầu hòa với Trung Quốc.
Và sự hàng phục đã diễn ra một cách rất
thành khẩn.
Ngôn ngữ chống Trung Quốc biến mất trong
diễn văn của các lãnh tụ hàng đầu, sau đó trên các báo, đài Việt Nam .
Tháng 6.1985, Nguyễn Văn Linh, con người đã thất sủng vì thân Trung Quốc, được
đưa trở lại bộ chính trị, để rồi một năm sau trở thành thường trực ban bí thư,
nghĩa là nhân vật thứ 2 trong đảng, nhưng thực tế là nhân vật toàn quyền vì Lê
Duẩn đã chết, Trường Chinh đã già nua lỗi thời. Lê Đức Thọ, người kiểm soát bộ
máy đảng không còn chọn lựa nào khác là ủng hộ Nguyễn Văn Linh.
Một năm sau ông Linh trở thành tổng bí thư
sau Đại Hội VI. Phải hiểu rằng đây là sự hàng phục chúng ta mới giải thích được
thái độ quỵ lụy của ĐCSVN đối với Trung Quốc sau đó.
Còn một chọn lựa
khác cho ĐCSVN là quả quyết hòa giải với Hoa Kỳ và sáp lại với các nước dân chủ
để được bảo vệ bởi công pháp quốc tế và để phát triển đất nước qua trao đổi và
hợp tác với các nước giầu mạnh, nhưng chọn lựa này, vào thời điểm đó và cho tới
hết thập niên 1980 không một lãnh tụ cộng sản Việt Nam nào nghĩ đến. Một lý do
là vì những vết thương của cuộc chiến và của chính sách tiếp thu miền Nam vẫn
còn quá mới, đảng cộng sản đã đi quá xa trong thái độ huênh hoang đắc thắng,
nhiều sĩ quan và viên chức miền Nam vẫn còn trong các trại cải tạo, thế giới
vẫn còn xúc động vì làn sóng thuyền nhân.
Nhưng đây không phải là lý do chính.
Lý do chính là tất
cả các lãnh tụ cộng sản lúc đó, không trừ môt ngoại lệ nào, đều tin một cách
cuồng nhiệt vào chủ nghĩa Mác-Lênin và thù ghét dân chủ. Trong mọi trường hợp
họ chỉ tìm kiếm những giải pháp trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin.
Với logic này một khi không dựa vào Liên Xô
được nữa thì chỉ còn một con đường là theo Trung Quốc. Đặc điểm chung của các
cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam là họ rất thiếu văn hóa, họ chỉ biết có một chủ
nghĩa Mác-Lênin mà họ học một cách cung kính như một giáo lý chứ không phải một
cách có phê phán như một tư tưởng chính trị.
Đối với họ chủ nghĩa Mác-Lênin là một tín
ngưỡng tuyệt đối. Đã thế họ còn trưởng thành trong chiến tranh và được huấn
luyện để không bao giờ thắc mắc về đường lối và mệnh lệnh. Đặc tính của những
người thiếu văn hóa là họ thường có những xác quyết chắc nịch không thể thay
đổi. Các lãnh tụ cộng sản lúc đó đều coi bảo vệ chủ nghĩa xã hội là bổn phận
trước hết và trên hết. Kể cả ông Nguyễn Cơ Thạch, con người hiểu biết và sáng
suốt nhất trong các thành viên bộ chính trị. Ông Thạch chỉ chủ trương mở rộng
quan hệ với Hoa Kỳ và các nước phương Tây để đừng quá cô lập và bị Trung Quốc
bắt chẹt chứ ông không hề nghĩ là phải kết bạn với những nước này.
Ông Trần Quang Cơ thuật lại lời phát biểu
của ông Thạch trong một cuộc thảo luận tháng 5.1987 của tổ CP87: “Phải
thỏa thuận cả với Mỹ, chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc
là không đúng.” Ý
kiến này, theo ông Cơ, là một ý kiến động trời vào lúc đó, vì nói tới quan hệ
với các nước phương Tây là một điều húy kỵ.
Còn chính ông Trần Quang Cơ?
Cuốn “Hồi
ức và suy nghĩ” của ông có
thể khiến người đọc nghĩ rằng ông là một người rất cởi mở, nhưng trong báo cáo
trình bộ chính trị vào năm 1993 ông vẫn coi “diễn biến hòa bình”, nghĩa là
chuyển hóa về dân chủ, như một mối nguy và tới năm 2000, khi viết những dòng
cuối cùng của cuốn sách, ông vẫn thấy lập trường này “xem ra chưa phải đã lỗi thời”.
Quan điểm của ông Cơ đáng chú ý ở chỗ ông không phải là thành viên bộ chính trị
hay ban bí thư, ông chỉ là một người thừa hành và một chuyên gia và do đó có
thể nói thực những gì mình nghĩ.
Chính vì thế mà những gì ông nói phản ánh
một cách thực thà “não trạng cộng sản” lúc đó.
Người duy nhất
trong số các lãnh đạo cấp cao dám có lập trường đổi mới mạnh dạn, dù muộn màng,
là ông Trần Xuân Bách. Ông là thành viên
của cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và phát biểu lập trường đa nguyên đa đảng
trong một bài nói chuyện tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc tháng 1 năm 1990. Ngay
sau đó ông bị kỷ luật, khai trừ khỏi cả bộ chính trị lẫn ban bí thư và cả trung
ương đảng.
Có lẽ chỉ trừ ông
Trần Xuân Bách tất cả bộ chính trị đều tán thành đường lối cầu hòa với Trung
Quốc. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ có những người, như Nguyễn Cơ Thạch, muốn đa
dạng hóa quan hệ để đừng bị cô lập và chèn ép; có những người chấp nhận phục
tùng Trung Quốc nhưng vẫn còn ấm ức như Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt, còn đa số hầu
như không có tâm sự nào cả.
Riêng hai ông
Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh thì không những chỉ chấp nhận mà còn tỏ ra rất
nhiệt tình với lập trường qui phục Trung Quốc không điều kiện. Nguyễn Văn Linh
vốn là một người thân Trung Quốc và đã từng bị loại khỏi bộ chính trị trong Đại
Hội V, năm 1982. Trong cuộc gặp gỡ với tổng bí thư đảng cộng sản Lào Kaysone
Phomvihan tháng 10.1989, Đặng Tiểu Bình trong khi phê phán nặng lời Lê Duẩn đã
hết lời ca tụng Nguyễn Văn Linh, nhắc lại năm 1963 đã tổ chức đưa ông Linh sang
Bắc Kinh qua ngả Hồng Kông để gặp Đặng. Việc ông trở lại bộ chính trị rồi ngay
sau đó lên làm tổng bí thư đánh đấu sự toàn thắng của khuynh hướng cầu hòa với
Trung Quốc.
Trong tất cả mọi phát biểu của Nguyễn Văn
Linh lập trường trước sau như một là phải bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc bằng mọi giá. Câu nói quen thuộc của ông là: “Trung Quốc và Việt Nam là hai nước
xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu của đế quốc Mỹ xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải
cùng nhau chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các
vấn đề khác giải quyết sau”.
Lê Đức Anh cũng hăng say không kém Nguyễn
Văn Linh trong lập trường qui phục Trung Quốc. Nhân vật Lê Đức Anh đặc biệt ở
chỗ là ông đã được thăng thưởng rất nhanh chóng trong giai đoạn thù địch với
Trung Quốc – từ đại tá lên đại tướng bộ trưởng quốc phòng và ủy viên bộ chính
trị trong vài năm – nhưng lại đột ngột trở thành thân Trung Quốc sau khi Nguyễn
Văn Linh trở lại cầm quyền, có lẽ là vì hai người đã thân nhau từ giai đoạn
cùng chỉ huy cuộc chiến tại miền Nam.
Từ khi Nguyễn Văn Linh trở lại Lê Đức Anh
hoàn toàn rập khuôn theo ông Linh trong thái độ đối với Trung Quốc. Đôi khi Lê
Đức Anh còn tỏ ra thù ghét “đế quốc Mỹ” và ngưỡng mộ Trung Quốc hơn cả Nguyễn
Văn Linh.
Thí dụ như khi sang Phnom Penh , cùng với Nguyễn Văn Linh và Đỗ
Mười, để thuyết phục chính quyền Hun Sen chấp nhận cái mà Hà Nội gọi là “giải
pháp Đỏ” ông nói: “Mỹ muốn
xóa cộng sản. Nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất, phải tìm đồng minh,
đồng minh là Trung Quốc”. Nhờ
lập trường này và sự hỗ trợ của Nguyễn Văn Linh mà Lê Đức Anh gần như trở thành
nhân vật quyền lực thứ nhì trong chế độ.
Tuy chỉ là quân nhân và hoàn toàn không
biết gì về bang giao quốc tế ông lấn át cả ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong
chính sách đối ngoại.
Ông Trần Quang Cơ
thuật lại rằng trước khi ông đàm phán với đại diện Trung Quốc Lê Đức Anh đã gọi
ông cho chỉ thị và ông đã nghe lời khiến ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải hỏi
gằn một cách bực bội: “Vậy
đồng chí theo ý kiến bộ trưởng quốc phòng hay bộ trưởng ngoại giao?”.
Trong Đại Hội VII năm 1991 tuy phải nhường
chức tổng bí thư cho Đỗ Mười nhưng quyền lực của ông cũng ngang ngửa với tổng
bí thư. Ông là uỷ viên thường trực bộ chính trị kiêm bí thư trung ương phụ
trách ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh, đồng thời là chủ tịch nước.
Tại sao ông phải ôm cả ngoại giao và an ninh nếu không phải là để đảm bảo rằng
chính sách phục tùng Trung Quốc vẫn tiếp tục và để bóp nghẹt những tiếng nói
phản đối?
Trong dịp “đại hội 11” năm trước, Lê Đức
Anh, dù đã 91 tuổi, bỗng nhiên tái xuất hiện kêu gọi ủng hộ thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng và lên án ông Nguyễn Phú Trọng là “tay sai Trung Quốc”.
Khi được một người bạn trong nước báo tin
và hỏi ý kiến tôi đã trả lời: “Đừng nên lấy thái độ, nếu ở Việt Nam có một
người không được quyền lên án bất cứ ai là tay sai Trung Quốc thì người đó
chính là Lê Đức Anh”. Sau lưng Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh là những người
hoặc ủng hộ tận tình lập trường hàng phục Trung Quốc hoặc chống Mỹ kịch liệt và
do đó phải chấp nhận cầu hòa với Trung Quốc.
Tới đây cần giải
tỏa một số lấn cấn và hiểu lầm.
Điều đáng lưu ý là
cách suy nghĩ rất lạ của những người lãnh đạo cộng sản mà một cách vô tình cuốn
hồi ký của Trần Quang Cơ mô tả khá rõ. Họ không lý luận một cách bình thường
như người ta có thể hình dung: Trung Quốc muốn gì, sẽ làm gì, có thể làm gì, có
những điểm mạnh và điểm yếu nào, có thể giúp gì hay gây thiệt hại nào cho Việt
Nam, ngược lại Việt Nam có thể bị đe dọa như thế nào và có thể làm gì v.v. Họ lý luận một cách thuần túy ý
thức hệ, theo đó Trung Quốc có hai
mặt, một mặt xã hội chủ nghĩa và một mặt bá quyền. Trong bảy năm trời lý
luận của ĐCSVN chỉ loanh quanh xem mặt nào quan trọng hơn với kết luận sau cùng
là cả hai mặt đều quan trọng.
Nghị quyết 13 của bộ chính trị, ngày
25.05.1988, nhấn mạnh là “phải khắc phục những tư tưởng lệch lạc
chỉ thấy Trung Quốc là bá quyền mà không thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội
hay chỉ thấy Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội mà không thấy Trung Quốc là bá
quyền”.Dầu vậy mục tiêu của Đảng vẫn là “phấn đấu bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau”.
Trong các “vấn đề khác” có vấn đề Trường Sa
vì hai tháng trước đó, ngày 14.03.1988 hải quân Trung Quốc đã đánh chiếm một số
đảo của Việt Nam tại Trường Sa và làm thiệt mạng hơn 60 binh sĩ Việt Nam. Cách
lý luận này ngày nay nhìn lại ta có thể cho là dở hơi nhưng nó nói lên não
trạng của những người lãnh đạo cộng sản vào lúc đó và nó cũng có hậu quả cụ thể
là ĐCSVN chấp nhận trước những thiệt thòi và mất mát đối với
Trung Quốc, vì đã chấp nhận “bình thường hóa quan hệ” dù biết trước Trung Quốc
có bản chất bá quyền. Theo ông Trần Quang Cơ đây không phải là bình thường hóa
quan hệ mà chỉ là lệ thuộc hóa. Vả lại, điều khó tin nhưng có thực, quyền lợi
quốc gia không hề là một quan tâm của các lãnh tụ cộng sản vào lúc đó. Theo Trần Quang Cơ chỉ mãi về sau này trong
cuộc họp kéo dài ba ngày của bộ chính trị từ 15 đến 17.05.1991, khi chính sách
đối với Trung Quốc đã quyết định xong, câu hỏi mới được đặt ra là nên chọn đồng
minh theo “lợi ích dân tộc” hay theo ý thức hệ. Và câu trả lời cũng vẫn là phải
chọn đồng minh theo ý thức hệ.
Trái với một nhận
định khá phổ biến, Nguyễn Văn Linh không phải là con người của của đổi mới mà
là con người của Trung Quốc. Đại Hội VI, tháng 12.1986, không phải là đại hội
đổi mới và một cơ hội dân chủ hóa không thành mà chỉ là đại hội của chọn lựa
thần phục Trung Quốc và chống dân chủ. Cái gọi là “đổi mới” của đại hội này chỉ
là rập khuôn theo mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của
Trung Quốc. Đại Hội VII kế tiếp là đại hội khẳng định dứt khoát sự thần phục
đối với Trung Quốc, những phần tử có chút tâm sự lấn cấn với lập trường này,
như Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, đều bị loại khỏi ban lãnh đạo. Các đại
hội VIII và IX chỉ tiếp tục một đường lối đã thành nền nếp. Khuynh hướng đối
đầu với Trung Quốc trong đảng chỉ bắt đầu xuất hiện từ đại hội X trở đi và xuất
phát từ lớp đảng viên trẻ sau hai thập niên trao đổi với phương Tây, trong bối
cảnh chủ nghĩa xã hội đã trở thành vô nghĩa và nhất là vì Trung Quốc quá xấc
xược.
Cũng trái với một
nhận định đã được phản ánh qua nhiều bài viết, kể cả của nhiều người dân chủ,
Trung Quốc không hề có mưu mô lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của họ.
Thực tế bẽ bàng hơn nhiều.
Chính quyền cộng sản Việt Nam đã nài nỉ
được phụ thuộc Trung Quốc trong khi Trung Quốc xua đuổi; họ chỉ coi ĐCSVN như
một bọn bội bạc và tráo trở bị dồn vào đường cùng. Trần Quang Cơ tiết lộ: “Từ năm 1980 đến năm 1988 ta đã
ngót hai mươi lần đề nghị đàm phán, Trung Quốc chỉ làm ngơ”.
Đúng ra là từ 1984 trở đi, khi Hà Nội thấy
là không còn dựa vào Liên Xô được nữa, như chính ông Cơ kể lại trong cuốn hồi
ký. Sự khẩn khoản còn gia tăng hơn nữa sau năm 1988. Việt Nam nhiều lần cầu xin
Trung Quốc giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội thay thế Liên Xô trong khi Trung
Quốc trả lời dứt khoát là họ không có ý định bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế
giới. Ưu tiên của họ là tranh thủ sự hợp tác và các thị trường của phương Tây
để hiện đai hóa và phát triển kinh tế. Một lần đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy
nói công khai với quan chức Việt Nam trong buổi tiếp tân của đại sứ quán Ai Cập
là “Trung Quốc không chủ
trương giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội về mặt đối ngoại”. Đây phải là chọn lựa rất quả quyết của
Trung Quốc nên một đại sứ mới có thể nói công khai và tự nhiên như vậy.
Hà Nội muốn lập lại tình anh em xã hội chủ
nghĩa trong khi Trung Quốc nói thẳng là họ chỉ có thể chấp nhận một quan hệ
láng giềng “thân nhi bất cận” (thân nhưng không gần). Nhu cầu hòa giải với
Trung Quốc còn mạnh đến nỗi nó khiến ban lãnh đạo CSVN thúc đẩy Lào lập quan hệ
với Trung Quốc để mong nhờ Lào làm trung gian đàm phán với Trung Quốc. Họ còn
cố làm một điều tưởng là vừa lòng Trung Quốc trong khi Trung Quốc không những
không muốn mà còn bực mình. Đó là “giải
pháp Đỏ” cho Campuchia. Sau
khi Gorbachev gợi ý rằng Việt Nam nên cố gắng tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc
để giải quyết cuộc xung đột tại Campuchia, ban lãnh đạo Việt Nam bèn nghĩ ra “giải
pháp Đỏ”, nghĩa là thỏa hiệp giữa hai phe cộng sản Campuchia – Pol Pot do Trung
Quốc đỡ đầu và Hun Sen do Việt Nam dựng lên – gạt phăng đi các lực lượng không
cộng sản Sihanouk và Son Sann. Họ tưởng như thế sẽ làm hài lòng Trung Quốc,
nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận. Bắc Kinh muốn một giải pháp do Liên Hiệp
Quốc bảo trợ và dành ưu thế cho các lực lượng không cộng sản bởi vì họ đang
muốn tranh thủ cảm tình của thế giới và nhất là phương Tây. Ban lãnh đạo Việt Nam thật quá
chậm hiểu! Và đồng minh Hun Sen của Hà Nội cũng không chấp nhận “giải pháp Đỏ”
này bởi họ nhất quyết không đội trời chung với bọn Khmer Đỏ. Giải pháp này cũng
phản bội cả hàng trăm ngàn bộ đội Việt Nam đã chết hoặc bị thương tật tại
Campuchia dưới danh nghĩa tiêu diệt bọn diệt chủng Khmer Đỏ.
Với một sự ngoan cố khó tưởng tượng, Nguyễn
Văn Linh và Lê Đức Anh sẽ còn cố gắng áp đặt giải pháp này lên Hun Sen trong
một thời gian dài để hy vọng cùng với Hun Sen thuyết phục Trung Quốc, ngay cả
sau khi đã chấp nhận giải pháp do Trung Quốc đưa ra tại Thành Đô. Kết quả là Hà
Nội thất bại và còn mất luôn cảm tình của chế độ Hun Sen mà họ dựng lên.
Con đường cầu hòa đã rất nhục nhằn cho Hà
Nội. Trung Quốc đã đặt ra nhiều điều kiện để chấp nhận nói chuyện về bình
thường hoá quan hệ giữa hai nước và mỗi khi Hà Nội thỏa mãn xong một điều kiện
thì họ lại đặt ra một điều kiện mới và Hà Nội lại phải thỏa mãn. Có khi họ chỉ
định cả người đại diện Việt Nam
để nói chuyện với họ. Tại hội nghị Paris ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin gặp
ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Thâm và được trả lời rằng Tiền Kỳ Thâm không có
thì giờ để tiếp Nguyễn Cơ Thạch nhưng nếu thứ trưởng Trần Quang Cơ muốn gặp thì
đồng ý.
Tháng 6.1990, sau sáu năm nhẫn nhục của Hà
Nội, khi Trung Quốc cuối cùng chấp nhận gửi Từ Đôn Tín, một trợ lý ngoại
trưởng, sang đàm phán với thứ trưởng Trần Quang Cơ, cả Nguyễn Văn Linh lẫn Lê
Đức Anh đều đã tiếp riêng đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy trước ngày Từ Đôn
Tín sang để tỏ lòng kính trọng với Trung Quốc. Từ Đôn Tín đã đến một cách ngạo
nghễ như một sứ giả thiên triều và tuyên bố:“Lần này tôi sang Hà Nội để xem
xét nguyện vọng của các đồng chí…”.
Từ Đôn Tín tự cho phép mắng ngoại trưởng
Nguyễn Cơ Thạch và khi ông Thạch trả lời thì nổi giận bỏ đi. Năm sau khi Lê Đức
Anh (chủ tịch nước) và Hồng Hà (trưởng ban đối ngoại trung ương đảng) sang thăm
Trung Quốc họ đã xin gặp Từ Đôn Tín để xin lỗi, mặc dù trước đó ông Thạch đã bị
gạt ra khỏi bộ chính trị và mất chức bộ trưởng ngoại giao để làm vừa lòng Trung
Quốc. Lê Chiêu Thống cũng không đến nỗi khúm núm như thế. Nhục nhã hơn nữa cuộc
gặp gỡ Thành Đô. Trần Quang Cơ thuật lại như sau: ngày 28.08.1990 đại sứ Trung
Quốc Trương Đức Duy thông báo cho chính quyền Việt Nam biết tổng bí thư Giang
Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng muốn gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và thủ
tướng Đỗ Mười cùng với cố vấn Phạm Văn Đồng để bàn về quan hệ giữa hai bên ngày
3.9.1990 tại Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc).
Đây là lệnh triệu tập chứ không phải đề
nghị.
Trung Quốc ấn định ngày giờ, địa điểm và
những ai sang Trung Quốc. Họ cũng buộc hai nhân vật quyền lực nhất chế độ, tổng
bí thư đảng cộng sản và thủ tướng, phải bỏ ngày quốc khánh Việt Nam để sang
họp. Theo Trần Quang Cơ Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã có mặt tại
Thành Đô ngày 02.09.1990. (Theo Trương Đức Duy thì họ đến ngày 3-9). Ba ông này
sau đó chấp nhận toàn bộ những gì Giang Trạch Dân và Lý Bằng đưa ra. Nhục nhằn
như vậy chỉ vì Hà Nội muốn được Bắc Kinh nhận làm đàn em trong khi Bắc Kinh
không cần gì cả. Và mối “quan hệ bình thường” này sẽ còn kéo dài về sau.
Trong Đại Hội X, năm 2001, để lật đổ tổng
bí thư Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh buộc tội Phiêu là đã dâng đất và độc đoán, khi
sang Trung Quốc đàm phán về biên giới không đem theo ngoại trưởng Nguyễn Mạnh
Cầm để dễ “thậm thụt”. Nguyễn Chí Trung, trợ lý của Lê Khả Phiêu, biện hộ cho
Phiêu như sau: Nguyễn Mạnh Cầm không đi vì thành phần phái đoàn Việt Nam do Trung
Quốc quyết định.
Chưa hết, hiện nay
mọi người Việt Nam
đều phẫn nộ và thế giới cũng phẫn nộ vì cái lưỡi bò liếm hết Biển Đông của
Trung Quốc. Nhưng cái lưỡi bò đó do đâu mà có? Đó là vì Bắc Kinh viện cớ họ có
một số đảo ở Trường Sa. Đó là những đảo mà họ đã đánh chiếm của Việt Nam năm
1988 sau khi giết hại 64 binh sĩ Việt Nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại
sao Trung Quốc không nhân dịp chiếm luôn tất cả mọi đảo của Việt Nam
tại Trường Sa mà lại chỉ chiếm một vài đảo đá?
Câu trả lời là họ không thể chiếm hết.
Thực ra nếu chính quyền CSVN không muốn họ
cũng không thể chiếm một hòn đảo nào cả. Trường Sa nằm ngoài tầm hoạt động của
không quân Trung Quốc và trong tầm hoạt động của không quân Việt Nam . Các tầu
chiến của Trung Quốc lúc đó cũng còn khá sơ sài và chưa đủ sức đương đầu với
máy bay chiến đấu. Chính quyền CSVN hoàn toàn có thể phản công lấy lại các đảo
đã mất và đuổi tàu chiến Trung Quốc ra khỏi Trường Sa nếu muốn nhưng họ đã
không làm. Họ đang muốn cầu hòa với Trung Quốc bằng mọi giá.
Những ai nghi ngờ
điều này có thể nhìn những gì xảy ra ngay sau đó. Ngày 14.03.1988 Trung Quốc
đánh Trường Sa. Ban lãnh đạo CSVN đã im lặng. Báo chí của Đảng và Nhà Nước loan
tin qua loa rồi thôi. Hai tháng sau, ngày 25.05.1988 bộ chính trị họp và ra
nghị quyết 13 khẳng định phải “phấn đấu bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết sau”. Tháng 9, hiến pháp Việt Nam được tu
chỉnh để bỏ đoạn coi Trung Quốc là kẻ thù. Trung Quốc không còn là kẻ thù sau
khi đã đánh chiếm Trường Sa!
Chúng ta đều phẫn
nộ vì sự thần phục quá đáng của Việt Nam đối với Trung Quốc nhưng ít ai
ý thức rằng để được thần phục Trung Quốc đảng CSVN đã bắt nước ta trả giá rất
đắt.
Nhìn lại giai đoạn
lịch sử vừa qua cũng chua xót như nhìn lại giai đoạn nhà Nguyễn bị quân Pháp
chinh phục hồi thế kỷ 19. Cũng bám lấy Trung Quốc và một chủ nghĩa đã lỗi thời
để từ chối một thay đổi vừa đúng vừa bắt buộc. Chủ nghĩa lỗi thời lần này là
chủ nghĩa Mác-Lênin thay vì Khổng Giáo. Chính trị Việt Nam vẫn giữ
nguyên sự mù quáng sau một thế kỷ. Điểm khác nhau là ngày trước triều Nguyễn
bám lấy Trung Quốc để chống một kẻ thù, lần này Đảng Cộng Sản bám lấy chính kẻ
thù.
Người ta khó có thể
không đặt những câu hỏi tương tự trong hai trường hợp.
Nếu ở thế kỷ 19 nhà
Nguyễn thay vì bám lấy Khổng Giáo và ngoan cố làm chư hầu Trung Quốc mạnh dạn
mở cửa ra với phương Tây?
Nếu sau năm 1975
hay vào năm 1984 thay vì bám lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và chọn làm đàn em Liên Xô
rồi hàng phục Trung Quốc đảng cộng sản chọn dứt khoát chuyển hóa về dân chủ?
Gần hơn và khẩn cấp
hơn, trong lúc này khi mà khả năng đất nước tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc và ra
khỏi bế tắc khá lớn nhưng chưa chắc chắn, là những câu hỏi nhức nhối:
Tại sao một thay
đổi đột ngột và toàn diện như thế trong chính sách đối với Trung Quốc, từ chống
đối hung hăng sang thần phục ngoan ngoãn, lại có thể được quyết định và thực
hiện bởi một vài người lãnh đạo thiển cận mà không bị chống đối? Như vậy có thể
nói tới một thành phần sáng suốt trong ĐCSVN không?
Và tại sao các trí
thức Việt Nam
cũng chỉ nhận ra thay đổi này khi nó đã hoàn tất? Phải đánh giá thế nào trình
độ nhận thức chính trị của trí thức Việt Nam ?
Sẽ là một sai lầm
lớn nếu chúng ta tránh né những câu hỏi này. Vì rất có thể chính quyền cộng sản
lại sắp đưa đất nước vào ngõ cụt một lần nữa.
Nguyễn Gia
Kiểng.
(Tháng 8/2012)
....../.