Sự khác biệt quá lớn giữa người Việt Nam và người Nhật
[…]
Cùng là hai nước
nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh nào đã đưa đẩy hai dân tộc khác biệt nhau quá xa.
Một dân tộc mà mỗi khi nhắc tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngã mũ bái phục,
còn dân tộc kia thì ít khi được nhắc đến, hay nếu có thì thường là những điều
không lấy gì làm vinh dự cho lắm.
Sau biến cố động đất và sóng thần đã có hàng ngàn ý kiến xuất
hiện trên các diễn đàn Internet đặt câu hỏi:
“Tại sao lại có
sự khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật”, phần lớn những ý kiến này
xuất phát từ những người trẻ đang sống ở Việt Nam . Đó là một tín hiệu đáng mừng
cho thấy có nhiều người Việt Nam
đang thao thức muốn thay đổi số phận của đất nước mình.
Đây là một đề tài rất lớn
và đòi hỏi sự suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là những nhà
trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên xem như những lời góp ý
rất khiêm tốn.
Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy
ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa.
[…]
Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những
thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng
can đảm. Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử
vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả
thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy
biến.
Trận động đất xảy ra tại Tokyo
ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama
bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo
bị tiêu hủy.
Trong quyển “Thảm
nạn Nhật Bản” (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật
lại: ”Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một
đại gia đình”chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.
Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki ,
ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của
Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần
đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá
lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những
điều không thể chịu đựng nỗi”.
Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần
như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng
không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua
trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.
Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát
trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa
Kỳ.
Danh từ “Phép lạ
kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.
[…]
Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ
đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ
vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh
thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng,
không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình. Một đất nước mà trong cơn khốn
khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một
lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.
Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ
lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn
toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những
căn nhà đổ nát không ai màng tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của.
Ông Gregory
Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia
(Mỹ) đã nhận xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là
không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắc rằng trong ngôn ngữ Nhật
Bản có từ ngữ này.”
Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng
yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ
nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.
[…]
Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người viết –
chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể
đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất
nước. Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng
vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả
ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần
kỹ luật và lễ phép.
Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên cạnh
mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy ngày qua nhưng nét mặt của các
em vẫn bình thản chờ đợi thức ăn mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ
tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh dự và khắc kỷ… không phải chỉ học ở trường
hay qua sách vở mà còn qua những tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh
thực tế và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
[…]
Trông người lại nghĩ đến ta!
NGƯỜI VIỆT THÍCH CHẬY NGƯỢC CHIỀU ? |
[…]
Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN
thì chuyện gì sẽ xảy ra? Bà Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:
- Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết
thêm nghìn nữa.
- Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.
- Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói
chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của
sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.
- Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ
nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố
cho mày mấy chưởng”.
- Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ,
cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.
- Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.
- Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới,
tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.
- Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào
dân đen sinh sống thì cứu sau.
- Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.
- Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý
của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng.
…v.v….
Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng
không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi
lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút
nào. Nói chung nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu
thua” hay “khôn nhờ dại chịu”, còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ
để kiếm tiền.
Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác
và rẻ rúng thân phận của mình – vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi
thì không đồng ý với những quan điểm như thế.
Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc
mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của
người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can
đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang
đứng tại đâu và cần phải làm những gì.
Cũng giống như
một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số
phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu
hàng hoàn cảnh.
[…]
Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết
văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng
những toa thuốc cực đắng như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp
nối tinh thần đó với “Người Trung Quốc xấu xí” cũng được nhiều đồng bào của ông
cho đó là một đóng góp đáng kể.
Cuộc cách mạnh
Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công
được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào
của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ
đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng
một cuốn sách công phu “Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người
Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.
Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc.
Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng
ngược như những liều thuốc an thần. Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu
hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như trong hơn nửa thế kỷ
qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.
Trong khi đó, người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang
tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng
ngoại mù quáng. Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước
chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa
chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước
chúng ta đều trông chờ vào lý thuyết và giải pháp của người ngoại quốc, chớ
không tự quyết định số phận của mình.
Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, hoàn toàn trái ngược
với các nhà cách mạng cùng thời, Phan Chu Trinh chọn giải pháp Khai Dân trí,
Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang
và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ. Dân
trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ
tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có
dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.
Ông là một trong
những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không
phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.
Sau Đệ Nhị Thế
Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có
vài nước như VN, phải trả bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối
cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới.
Chọn lựa này là
chọn lựa của dân tộc, của VN chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý
do gì khác.
Lòng yêu nước mù
quáng biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp
giữa hai khối Cộng Sản và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân
tộc “bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.
Những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự
chọn lựa đó.
Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan
Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác,
lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ
đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ
Phan Bội Châu – một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng
hộ quan điểm của cụ.
Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa
dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có
thật. Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc
cứu chữa.
Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút
thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc
hoang vắng và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã
bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước
và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.
Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần
giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127
triệu so với 87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo,
không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa
hai đất nước. Sự khác biệt về kinh tế, sự giàu có tiện nghi không phải là điều
quan trọng, chủ yếu là sự khác biệt về cách suy nghĩ (mentality) giữa hai dân
tộc.
Vào thời điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm lăng VN thì dân ta
vẫn còn u mê bám vào những giá trị đã lỗi thời, người Nhật tức thời bỏ những
truyền thống hủ lậu, học hỏi những cái hay của Tây Phương để bắt kịp họ. Đến
thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, VN muốn trở thành biểu tượng của một dân tộc
anh hùng, người Nhật biết nuốt nhục của kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận
dụng lòng mã thượng của kẻ chiến thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để vươn lên
thành một cường quốc kinh tế.
Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Những nghiên cứu công phu và
nghiêm chỉnh của các cơ quan quốc tế gần đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp
Quốc (United Nations Development Program – UNDP) đã chứng minh một cách thuyết
phục rằng sự chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu không phải do yếu
tố địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố
văn hóa. Văn hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ (mentality) của
mỗi dân tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau
khi đương đầu với cùng một thử thách.
Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính phủ tham nhũng cả
hàng triệu đô la như ở các nước Phi Châu mà mọi người vẫn xem đó là chuyện bình
thường, trong lúc đó tại một nước khác – một bộ trưởng chỉ vì nhầm lẫn nhận 600
đô cho quỹ tranh cử đã phải xin lỗi quốc dân rồi từ chức (1)? tại sao một quốc
gia nhỏ bé như Do Thái chưa tới 3 triệu dân (2) có thể chiến thắng cả khối Á Rập
trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh cho đến ngày hôm nay?
Trong lúc đó có
những nền văn minh đã từng một thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất … và
còn cả ngàn thí dụ khác để chứng minh rằng chính yếu tố văn hóa quyết định sự
tồn vong và sự lớn bé của mỗi dân tộc.
Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa Kỳ…
cho dù bị thiên tai tàn phá đến đâu, cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng
vẫn có thể vươn trở thành những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq,
Nigeria, Venezuela, Angola, Libya… mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những
nước nghèo.
Bước ngoặt quan
trọng nhất đã làm thay đổi khoảng cách giữa VN và Nhật chính là cuộc cách mạng
Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời thay đổi
thì các vua chúa VN vẫn còn ngủ mê bên trong các bức tường cung điện ở Huế. Họ
không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung
Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương.
Vào tháng 7 năm 1853 khi triều đình Tokugawa từ chối không cho
Thuyền trưởng người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức thư của Tổng Thống
Fillmore, ông ra lệnh bắn vào thành phố Edo (Tokyo ngày nay).
Những quả đại bác
này đã làm cho người Nhật thức tỉnh ngay.
Lòng ái quốc và
niềm tự hào dân tộc đã làm cho họ đoàn kết lại để tìm cách giúp đất nước thoát
khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này đã mở đầu cuộc cách mạng Minh Trị
Duy Tân kéo dài 44 năm.
Đó là một cuộc cách mạng đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để,
họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ, người đi Âu Châu, kẻ đi chính thức người đi
lậu bằng cách trốn xuống tàu buôn Tây Phương như trường hợp của thần đồng
Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một mục đích là tìm đến tận nguồn cội của nền
văn minh để học hỏi những cái tinh túy mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một
cách dứt khoát tất cả những cái cũ không còn hợp nhưng không để mất tinh thần
độc lập. Họ không phải chỉ có một ông vua Minh Trị hết lòng yêu nước mà cả trăm
ngàn những tấm lòng như thế quyết tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với
các nước Tây Phương.
Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm tưởng đó là
cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao thương và học hỏi kỹ thuật của Phương
Tây. Thật sự không phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ yếu là
người Nhật học hỏi những tinh túy về tư tưởng của người Tây Phương để khai sáng
trí tuệ cho dân tộc của họ.
Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm cho
người Nhật thức tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta, kể từ thời điểm
1853 cho đến hôm nay đã có hàng trăm ngàn quả bom đã rơi xuống đất nước Việt
Nam, không những chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm hồn dân
tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của một dân tộc nhược tiểu. Nhưng
tất cả những nỗi đau đó vẫn chưa đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy
cần phải có một nhu cầu thay đổi cần thiết như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ
thứ kỷ 19.
Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến xăm lăng đất
nước VN, trước đó vào mùa thu năm 1847 để phản đối chính sách cấm đạo của vua
Thiệu Trị, Trung tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của Việt
Nam, năm 1842 Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương
trong cuộc chiến Nha Phiến.
Nhưng tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa đủ để
làm cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn không nhận ra rằng
đất nước đang đứng trước khúc quanh của lịch sử. Từ thời điểm năm 1842 hay 1847
cho đến 1858, đó là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu các vua nhà Nguyễn
thức thời, khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải
chịu 80 năm đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa văn hóa kéo dài đến
hôm nay.
© Phạm Hoài Nam
Ghi chú:
(1) Ngoại trưởng Nhật Seiji
Maehara từ chức ngày 6 Tháng Ba 2011 vì nhận 600 Mỹ kim cho quỹ chính trị từ
một người ngoại quốc.
(2) Dân số Do Thái vào thời
điểm 1967 là 2.7 triệu người.