Nhạc sĩ Phạm Duy
(Phạm Duy Cẩn)
sinh ngày 5-10-1921 tại Hà Nội,
từ trần lúc 14g30 ngày 27-1-2013 tại TP.HCM
(nhằm ngày 16 tháng chạp năm Nhâm Thìn)
******************************************************
Hội Nghị Văn Nghệ Việt Bắc 1950
TRÍCH “HỒI KÝ KHÁNG CHIẾN” của PHẠM
DUY
http://phamduy.com/document/hoiky/hoiky2/chuong_32.html
[...]
Thế rồi
vào một ngày hè trong năm 1950 này, Đại Hội Văn Nghệ -- có thêm vào đó hai chữ
Nhân Dân -- được khai mạc. Hội trường do kiến trúc sư Võ Đức Diên vẽ kiểu và
đôn đốc việc xây cất từ mấy tháng nay. Tuy vật liệu xây cất chỉ là những cột
dọc làm bằng thân cây lớn, những cột ngang làm bằng tre, cùng với vách nứa và
mái tranh, nhưng Hội Trường trông cũng đồ sộ lắm, khác hẳn với những hội trường
ở miền suôi mà tôi đã biết. Thành phần tham dự Đại Hội là những văn nghệ sĩ nổi
danh đang phục vụ trong Quân Đội hay trong các Hội Văn Nghệ ở Trung Ương, các
nhân viên của các hội văn nghệ ở các địa phương và còn có thêm cả các cán bộ
thông tin văn hoá nữa.
Chủ
Tịch đoàn gồm có nhà văn Nguyên Hồng, hội viên Hội Văn Nghệ Trung Ương, kịch sĩ
Lê Văn (Vũ Bắc Tiến) trưởng ban kịch của Trung Đoàn 308 và Vũ Thược, cán bộ văn
hoá của huyện Lập Thạch thuộc Vĩnh-Phúc (tức hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên).
Vào thời điểm này, Đảng Cộng Sản bấy lâu nay ẩn mình trong Mặt Trận Việt Minh
bây giờ quyết định đưa ra bàn tay không còn bọc nhung nữa. Đại Hội gọi là Văn
Nghệ Nhân Dân này không có mục đích nào khác hơn là bắt đầu từ nay trở đi, có
Tố Hữu với bàn tay sắt, chỉ huy văn nghệ.

Sau đó,
tới phần thảo luận riêng của các ngành. So với mọi ngành khác, thành phần nghệ
sĩ trong ngành kịch là đông đảo nhất. Tuy tôi là nhạc sĩ và vợ tôi là ca sĩ
nhưng Thái Hằng còn là kịch sĩ nữa cho nên chúng tôi có mặt trong những buổi
hội thảo về ngành này. Tôi gặp Hoàng Tích Linh, tác giả vở kịch nhan đề Tiếng Đập Cửa là người ở trong đoàn kịch Chiến Thắng của Tổng Cục Chính Trị. Diễn viên
trong đoàn này là Thúy Cẩm, em gái của kịch sĩ Kỳ Ngung và Thùy Chi, em ruột
của nữ kịch sĩ Kiều Hạnh. Thùy Chi có tên thật là Khuê, nhưng được mọi người
gọi là Cô Thôn, tên của một nhân vật kịch. Cô Khuê đóng vai cô Thôn đặc sắc đến
nỗi người ta không còn gọi cô bằng tên thật hay bằng tên nghệ sĩ của cô nữa. Nữ
diễn viên Kiều Hạnh cũng là chị dâu của Thái Hằng và cũng có mặt tại Đại Hội
này cùng với anh Phạm Đình Sĩ và mấy cháu Mai Hương, Bạch Tuyết và Sơn. Gặp
được những người thân thích thì vợ tôi vui lắm.
Tôi
cũng gặp cả Hoàng Cầm, vừa mới tới Yên Giã cùng với các diễn viên nổi tiếng
trong ngành Kịch Thơ như Trần Hoạt, Kim Lân. Tôi thấy Hoàng Cầm gầy đi nhưng
đôi mắt của nó vẫn còn sắc như dao, giọng nói của nó vẫn sang sảng...
Dưới sự
chủ toạ của Thế Lữ, Hội Trưởng của Hội Sân Khấu, một anh hội viên là Đoàn Phú
Tứ đứng ra thuyết trình về sự hình thành của sân khấu Việt Nam gồm có Tuồng Cổ,
Chèo Cổ, Cải Lương, Kịch Thơ, Kịch Nói... và xin mọi người thảo luận để định
nghĩa cho một hình thức sân khấu mới mẻ nhất là Thoại Kịch tức Kịch Nói.
Sau
nhiều tranh luận, Đoàn Phú Tứ tóm tắt các ý kiến của những người phát biểu. Tất
cả đã nhất trí với định nghĩa này :
-- Kịch là bộ môn nghệ thuật dùng sân khấu làm phương tiện trình bày những cảnh đời đang có mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn đi tới chỗ kịch liệt thì phải giải quyết. Giải quyết xong mâu thuẫn là hết kịch.
-- Kịch là bộ môn nghệ thuật dùng sân khấu làm phương tiện trình bày những cảnh đời đang có mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn đi tới chỗ kịch liệt thì phải giải quyết. Giải quyết xong mâu thuẫn là hết kịch.
Tôi đã
biết tới những điều này từ lúc mới bước chân vào Liên Khu IV, được nghe tướng
Nguyễn Sơn giảng về Tào Ngu và vở kịch Lôi Vũ. Có gì là mới lạ đâu ? Đã tưởng
thế là xong phần thuyết trình và định nghĩa về Thoại Kịch sau khi các văn nghệ
sĩ đã đồng ý với thuyết trình viên Đoàn Phú Tứ. Nhưng lập tức một số cán bộ
chính trị đứng lên đòi Chủ Tịch Đoàn phải bổ túc thêm vào biên bản của hội nghị
:
-- Giải quyết những vấn đề trong các vở kịch thì phải có lập trường. Vậy chúng ta đứng trên lập trường nào ? Lập trường phong kiến ? Lập trường tư sản hay tiểu tư sản ? Không. Phải đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
-- Giải quyết những vấn đề trong các vở kịch thì phải có lập trường. Vậy chúng ta đứng trên lập trường nào ? Lập trường phong kiến ? Lập trường tư sản hay tiểu tư sản ? Không. Phải đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
Trong
một buổi họp khác, tổ kịch đang thảo luận về đặc trưng của các bộ môn sân khấu
như Tuồng Cổ, Chèo Cổ, Cải Lương, Kịch Thơ và Kịch Nói, Tố Hữu đứng ra lên lớp
anh em, trước hết là đả kích bài Vọng Cổ. Tố Hữu nói :
-- Vọng Cổ có âm điệu ủy mị, làm cho người nghe bị ru ngủ, lòng người nghe bị mềm yếu rồi người nghe cúi đầu xuống, tiêu tan cả chí phấn đấu.
Lưu Hữu Phước, Tống Ngọc Hạp bèn kẻ trước người sau đứng lên bênh vực cho bài Vọng Cổ xuất xứ từ Nam Bộ của mình, nói rằng :
-- Vọng Cổ hay lắm, hay lắm, không bỏ được Vọng Cổ đâu ạ.
Nhưng Tố Hữu cười khảy :
-- Vâng, bài Vọng Cổ hay lắm. Hay đến độ đã làm cho ViệtNam mất nước,
bây giờ trong kháng chiến, ta phải nên cấm nó.
-- Vọng Cổ có âm điệu ủy mị, làm cho người nghe bị ru ngủ, lòng người nghe bị mềm yếu rồi người nghe cúi đầu xuống, tiêu tan cả chí phấn đấu.
Lưu Hữu Phước, Tống Ngọc Hạp bèn kẻ trước người sau đứng lên bênh vực cho bài Vọng Cổ xuất xứ từ Nam Bộ của mình, nói rằng :
-- Vọng Cổ hay lắm, hay lắm, không bỏ được Vọng Cổ đâu ạ.
Nhưng Tố Hữu cười khảy :
-- Vâng, bài Vọng Cổ hay lắm. Hay đến độ đã làm cho Việt
Nghe
thấy vậy, bụng bảo dạ, tôi nghĩ :
-- A... Tố Hữu nói như vậy thì có nghĩa là Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân này phải có thái độ với bài hát đã từ lòng nhân dân mà ra...
-- A... Tố Hữu nói như vậy thì có nghĩa là Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân này phải có thái độ với bài hát đã từ lòng nhân dân mà ra...
Lưu Hữu
Phước và Tống Ngọc Hạp im lặng. Xưa nay tôi là người không ưa cãi nhau cho nên
lúc đó tôi cũng im luôn. Dù lập trường của Tố Hữu không vững lắm nhưng tôi cũng
không đứng lên để bênh vực hai anh nhạc sĩ Nam Kỳ này.
Theo sự
hiểu biết của tôi -- vốn là kẻ đã đi theo gánh hát Cải Lương trong ba năm trời
-- thì bài Vọng Cổ đã ra đời vào năm 1917 là lúc nước Việt Nam đã sống dưới ách
nô lệ thực dân từ lâu rồi. Đã mất nước rồi mới có một người là ông Sáu Lầu ở
Bặc Liêu đẻ ra bài Vọng Cổ. Điệu Vọng Cổ xuất thân từ điệu Hành Vân, mới đầu
chỉ có 20 câu, mỗi câu 2 nhịp. Khi nó phát triển tới loại Vọng Cổ 6 câu mỗi câu
16 nhịp rồi tiến tới 32 nhịp thì âm nhạc của nó nghiêng hẳn về điệu ru con ở
miền Nam. Trong suốt mấy chục năm, Vọng Cổ đã được dùng để kể lể đầy đủ mọi thứ
chuyện buồn hay chuyện không buồn, kể cả những chuyện hài hước làm cho người
nghe phải cười nôn ruột của mấy anh hề. Không phải chỉ có những bài hát Vọng Cổ
than khóc mà thôi đâu.
Nhưng
nếu cứ cho rằng đa số bài Vọng Cổ nói tới chuyện buồn đi, là làm nhụt chí anh
hùng đi, thế tại sao vào ngày lịch sử 12 tháng 10 năm 1945, tất cả Nam Bộ cứ
cầm gậy tầm vông vùng lên đánh Pháp và vẫn còn tiếp tục đánh Pháp cho tới bây
giờ (là mùa Hè 1950). Những thính giả mà ta cho rằng đã bị đầu độc bằng bài
Vọng Cổ hằng mấy chục năm, tại sao họ vẫn anh dũng chiến đấu ? Họ đâu có đầu
hàng Pháp ? Và chắc chắn là họ vừa đánh giặc, vừa hát Vọng Cổ cho mà coi. Vọng
Cổ, theo tôi, chính là bài hát phát sinh từ nhân dân cho nên nó mang rất nhiều
chất tình tự dân tộc. Nói một cách khác, khi tôi nghe hát Vọng Cổ, tôi rất cảm
động và tôi thương yêu nước tôi hơn là khi tôi nghe nhạc...classic hay nhạc rock chẳng hạn.
Chỉ huy
xong sự khai tử bài Vọng Cổ,
Tố Hữu đi tới phán quyết thứ hai của anh. Anh mạt sát thậm tệ Kịch Thơ :
-- Nội dung kịch thơ phần nhiều chỉ phản ảnh tinh thần phong kiến. Cốt truyện đưa ra toàn là những nhân vật quan liêu. Lối diễn xuất bằng sự ngâm nga, nghe thật là rên rỉ, lướt thướt. Kịch Thơ không thích hợp với cuộc sống động của toàn dân đang kháng chiến.
-- Nội dung kịch thơ phần nhiều chỉ phản ảnh tinh thần phong kiến. Cốt truyện đưa ra toàn là những nhân vật quan liêu. Lối diễn xuất bằng sự ngâm nga, nghe thật là rên rỉ, lướt thướt. Kịch Thơ không thích hợp với cuộc sống động của toàn dân đang kháng chiến.
Lại
cũng không ổn. Những vở kịch thơ trước đây tôi đã được coi, chính là những vở
kịch nung nấu lòng ái quốc của chính tôi, vì nó nói tới chuyện Nguyễn Trãi, Phi Khanh, nói tới Quán Biên Thùy, Người Mù Dạo Trúc,
Bến Nước Ngũ Bồ, Lên Đường, Viễn Khách... Lối ngâm thơ rền rĩ mà những ngâm
sĩ đã mắc phải khi diễn kịch thơ, ta có thể khắc phục được nếu ta huấn luyện
cho các ngâm sĩ biết chọn đoạn nào ngâm, đoạn nào nói. Và nếu ngâm nên ngâm
theo giọng gì ? Giọng oán cần phải dùng cho đúng lúc. Là kịch thơ nhưng vẫn có
thể có những đoạn nói thơ -- lẽ dĩ nhiên không phải là lối nói thường hoặc nói
lối theo kiểu Hát Chèo hay Cải Lương -- Cần nhất là phải dùng tối đa những điệu
ngâm khác biệt với giọng oán như sa mạc, cổ thi hay những điệu ngâm thơ nằm
trong nhạc mục của Hát Ả Đào. Vấn đề này nằm hoàn toàn trong lĩnh vực kỹ thuật
(không phải nghệ thuật) cho nên rất dễ cải tiến. Opera của Âu Tây là cái gì,
nếu không phải là kịch thơ có ngâm nga và có hát lên ? Hơn nữa, gần đây, tại
chiến trường Cao-Bắc-Lạng, tôi và Hoàng Cầm rất thành công với những màn diễn
thơ có thể được gọi là những màn kịch thơ ngắn được lắm.
Với Đêm Liên Hoan hay Tâm
Sự Đêm Giao Thừa được trình
diễn với hai diễn viên và có điệu bộ, ta có mầm mống của những vở kịch thơ ái
quốc. Ngay chính tôi đây, khi diễn ngâm bài thơ Bắn Đi Tố Hữu, tôi đã đóng kịch đó. Đóng
vai anh thi sĩ đứng cạnh người lính Pháo Binh ở trên một ngọn đồi có đặt sẵn
khẩu súng lớn nhắm xuống đồn địch. Người lính Pháo Binh phải chờ giờ khai hoả,
nhưng anh nghệ sĩ quá căm thù giặc, nhìn thấy chúng đang cười nói ở dưới đồn
thì sốt ruột quá, anh thúc giục đồng chí Pháo Binh phải bắn đi. Bắn ngay lập
tức. Tôi được bộ đội rất hoan nghênh khi đóng kịch trong cái màn thơ độc diễn
này.
Tôi cho
rằng, nếu lúc đó Hoàng Cầm được khuyến khích để tiếp tục phát triển Kịch Thơ
thì không chừng chúng ta đã có một thứ sân khấu có tính chất opera theo kiểu
Việt Nam ,
chứ không phải thứ opera học mót của các trường phái của Âu Tây.
Sau khi
Tố Hữu đã đả kích Kịch Thơ xong rồi, cử toạ bỗng im phăng phắc, mọi người chăm
chú nhìn vào Hoàng Cầm, mục tiêu của sự đả kích. Hoàng Cầm đứng dậy, nhấc cái
ghế đẩu mà nó vừa ngồi lên, trịnh trọng bưng ghế ra đặt ở giữa hội trường, lấy
ở trong túi ra một sợi dây dài, dùng dây buộc tập kịch thơ, xong leo lên ghế
đẩu, giơ tập thơ vừa mới bị trói chặt lên thật cao, tuyên bố :
-- Tôi xin treo cổ Kịch Thơ. Bắt đầu từ ngày hôm nay.
-- Tôi xin treo cổ Kịch Thơ. Bắt đầu từ ngày hôm nay.
Phải
công nhận là trong Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân này, những nhà lãnh đạo Việt Minh
coi ngành sân khấu như một đội quân lớn để thể hiện đường lối gọi là văn nghệ
hiện thực xã hội chủ nghĩa đã được Chủ Tịch Đoàn đưa ra ngay từ hôm khai mạc
Đại Hội. Dưới con mắt của Chính Quyền và nhất là của Đảng Cộng Sản ẩn hình sau
Mặt Trận Việt Minh, ngành Sân Khấu là bộ môn có nhiều quần chúng nhất.
Do đó
mà ta thấy Tố Hữu ra hết mệnh lệnh này tới mệnh lệnh khác, nhằm vào Kịch Thơ,
nhằm vào bài Vọng Cổ của Sân Khấu Cải Lương và đề cao Thoại Kịch là đội quân
xung kích của trận chiến này. Từ nay trở đi, sẽ có rất nhiều các đoàn văn công
được thành lập để thực hiện những phương châm mà Đại Hội này đề ra, nói cho gọn
là đem lập trường đấu tranh giai cấp vào ngành Ca-Kịch-Nghệ. Có lẽ để sửa soạn
cho việc cải cách ruộng đất ''long trời lở đất'' sắp sửa xẩy ra trong năm sau,
khi Việt Cộng tiếp thu được bài học về chính sách này của Trung Cộng.
Các
ngành khác -- như âm nhạc chẳng hạn -- cũng được bàn tay chỉ huy chiếu cố tới,
nhưng sự ra lệnh có vẻ kín đáo và tế nhị hơn. Tôi bị phê bình là tiêu cực với
những bài như Bao Giờ Anh Lấy
Được Đồn Tây, Bà Mẹ Gio Linh. Và tôi được khuyến khích để khai tử một bài
hát quá ư lãng mạn và đang được phổ biến rất mạnh mẽ trong toàn quốc là bài Bên Cầu Biên Giới. Nhưng tôi
đóng kịch giả vờ ngu dại và lơ đãng, lờ luôn cái chuyện đó đi. Chỉ không hát
những bài bị phê bình là tiêu cực và lãng mạn đó ở trong Đại Hội là cũng đủ làm
hài lòng qúy vị lãnh đạo rồi. Phải không ?
Tối
đến, trong buổi sinh hoạt có tính cách giải trí, tôi và Thái Hằng hát xong bài Bà Mẹ Quê là xuống ngồi nghe các nhạc sĩ
trong đoàn Văn Nghệ Khu III biểu diễn. Có Canh Thân hát bài Thiên Thai với sự phụ hoạ dương cầm của vua
piano Nguyễn Văn Hiếu. Văn Cao ngồi cạnh tôi nhiều khi phải nhăn mặt khi nghe
Canh Thân hát bài Thiên Thai với quá nhiều fantaisies,
nghĩa là ca sĩ hát sai nhiều nốt nhạc ở trong bài hát. Có các nhạc sĩ Xuân
Tiên, Xuân Lôi... thổi kèn cho nhiều ca sĩ hát những bài của Đỗ Nhuận, Nguyễn
Đình Phúc, Lương Ngọc...
Phải
nói rằng Đại Hội Văn Nghệ này rất thành công.
Thành
công ở chỗ đại đa số văn nghệ sĩ được chỉ huy mà không có ai dám phản đối gì
cả. Nếu có phản đối, phải đợi khi tan xong Đại Hội và trở về tới địa phương rồi
mới phản đối bằng cách... dinh tê. Đại Hội lại cũng rất là vui. — giữa khu rừng
xưa nay heo hút, bây giờ có rất đông đảo các tay to mặt lớn trong làng văn nghệ
và chính trị tới gặp nhau. Sau bốn năm đi tung hoành ở mọi nơi, bây giờ họ mới
có dịp tụ hội, mà lại tụ hội ở một nơi chúng tôi gọi là gần mặt trời.
Giới
văn nghệ sĩ có cảm tưởng như mình được trọng vọng. Trong giờ nghỉ giải lao,
chúng tôi trò chuyện với nhau rất là thân mật, tránh không nhắc tới những vấn
đề mà chúng tôi coi như là những bêtes
noires vừa được nêu lên trong
Đại Hội.
Nhạc sĩ
Nguyễn Đức Toàn vì quá yêu tôi qua những bài dân ca gần đây cho nên cho rằng
tôi là người tạo ra được một âm giai đặc biệt Việt Nam , anh ta gọi là gamme phamduyrienne.
Đoàn
Phú Tứ giúp tôi sửa lại hai chữ trong bài Tiếng
Hát Trên Sông Lô :
Hỡi anh du kích tập bắn trên rừng
Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng
Nửa đêm nghe tiếng chim mừng líu lo...
- Cậu nên đổi hai chữ ''nửa đêm'' bằng hai chữ ''bình minh''.
Tôi
đồng ý ngay. Và cám ơn tác giả của bài thơ Mầu
Thời Gian bất hủ. Sau này tôi
có phổ nhạc bài thơ đó, không biết anh bạn vàng này có nghe được hay không ?
Buổi
tối có sinh hoạt văn nghệ. Có các khách ngoại quốc tham dự. Các cố vấn Liên Sô
gặp nữ nghệ sĩ nào cũng ôm hôn khiến cho ai cũng ngượng. Họ còn mời các bà, các
cô nhẩy theo kiểu Son Đố Mì nữa. Càng vui chứ sao ?
Đại Hội
khoản đãi văn nghệ sĩ cũng rất chu đáo. Tuy không được hưởng chế độ ăn theo
''tiểu táo'' như các ông ''vua mới'' của nước ta, nhưng trong những bữa cơm tập
thể nấu theo kiểu ''đại táo'' này, tôi đã được thưởng thức tài nội trợ của
những bà như chị Võ Đức Diên với món chao làm bằng đậu xanh (soja) rất bổ béo.
Trong
suốt thời gian bốn tháng ở Yên Giã, ngày nào chúng tôi cũng được ăn cơm với
chao, không đi tu mà cũng ăn trường chay.
......../.