Các kiểu nợ xấu
Cũng là nợ xấu nhưng vấn đề
nợ nước ngoài của Thái Lan năm 1997, nợ dưới chuẩn của Mỹ và nợ xấu của hệ
thống ngân hàng Việt Nam có những đặc điểm khác nhau nên cách giải quyết cũng
khác nhau.
Khủng
hoảng do nợ ở Thái Lan năm 1997
Cách đây hơn 15 năm, vào tháng
7-1997 tôi có dịp đi công tác ở Thái Lan ngay đúng ngày chính phủ nước này
quyết định thả nổi đồng baht, khơi mào cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn châu
Á.
Lúc đó dĩ nhiên báo chí đưa
tin rầm rộ, phân tích đủ kiểu nhưng vẫn thiếu vắng một cái nhìn tỉnh táo toàn
diện vấn đề nợ của Thái Lan – một cái nhìn chỉ vài năm sau mới lắng xuống thành
lịch sử kinh tế. Thậm chí lúc đó, tôi còn khá ngây thơ khi phỏng vấn Thủ tướng
đương nhiệm Chavalit Yongchaiyudh, “ông có thể tiên đoán gì cho nền kinh tế
Thái Lan trong sáu tháng tới?” Câu trả lời của Chavalit cũng “ngây thơ” không
kém: “Tại bất kỳ nước nào, tình hình kinh tế không thể đảo ngược trong vòng sáu
tháng. Chúng ta không thể trông chờ sự phục hồi trong sáu tháng. Nhưng các bạn
sẽ thấy phép lạ xảy ra tại Thái Lan, tôi tin thế”.
Những tháng sau đó, đồng baht
mất một nửa giá trị, nền kinh tế Thái Lan suy sụp hoàn toàn, hàng loạt cao ốc,
công trình xây dựng bị đình trệ, nạn thất nghiệp tràn lan, hàng loạt doanh
nghiệp lớn phá sản, nhiều ngân hàng đóng cửa. Chỉ một tháng sau tuyên bố của
Chavalit, IMF phải nhảy vào và bỏ ra 17,2 tỷ đô-la Mỹ để cứu nền kinh tế Thái
Lan.
Bài học về nợ của Thái Lan là
gì? Vấn đề nợ của Thái Lan mang yếu tố nước ngoài. Trong nhiều năm liền GDP của
Thái Lan tăng bình quân đến 9% mỗi năm, lạm phát thấp, đồng baht gắn cố định
với đồng đô-la Mỹ (25 baht ăn 1 đô-la Mỹ) nhưng lãi suất cao (khoảng 13,25%
trước khủng hoảng) nên người ta thay nhau vay tiền nước ngoài vô tội vạ.
Vay tiền về đổi ra đồng baht
gởi vào ngân hàng cũng đã có lãi rồi nên nợ nước ngoài của Thái Lan tăng nhanh,
là nguyên nhân chính gây khủng hoảng.
Nhất là các khoản tiền này đổ
vào bất động sản, tạo ra tình trạng bong bóng hay đổ vào xây dựng nhà máy xi
măng, sắt, thép, hoá dầu để cuối cùng xảy ra tình trạng dư thừa ở hầu hết các
ngành cơ bản.
Đến năm 1997, nợ nước ngoài
của Thái Lan vọt lên 109 tỷ đô-la Mỹ, đa phần là vay ngắn hạn, cán cân vãng lai
lại thâm hụt trong nhiều năm liền.
Giới đầu cơ nhận định trước
sau gì chính phủ Thái cũng phải phá giá đồng tiền bèn nhảy vào đầu cơ đánh giá
xuống.
Họ vay tiền baht, đổi ra tiền
đô-la, khiến chính phủ Thái phải bỏ ra 24 tỷ đô-la (gần hai phần ba dự trữ
ngoại tệ) để bảo vệ cái tỷ giá cố định trên và đến khi hết tiền, phải tuyên bố
thả nổi đồng baht. Từ 25 baht ăn 1 đô-la Mỹ chỉ trong vòng vài tháng, giá trị
đồng tiền này sụt xuống còn 56 baht/1 đô-la Mỹ.
Rõ ràng các khoản vay nợ nước
ngoài tính bằng tiền baht bỗng dưng tăng gấp đôi, làm nhiều ngân hàng phá sản
vì con nợ trong nước phá sản. Khủng hoảng xảy ra và chứng khoán Thái Lan giảm
từ đỉnh cao 1.753 điểm còn 207 điểm vào năm 1998. Phải mất 10 năm GDP Thái Lan
tính theo đô-la mới phục hồi về lại mức năm 1996. Một ghi chú nhỏ: Thủ tướng
Chavalit phải từ chức vào tháng 11-1997, không thể chờ phép lạ xảy ra.
Nợ dưới
chuẩn ở Mỹ
Năm 2004 khi qua Mỹ tiếp xúc
với khá nhiều người trong cộng đồng người Việt, tôi thấy nổi lên một xu hướng
rất rõ: vay tiền mua nhà, rồi dùng nhà đó vay tiền mua nhà tiếp, chờ giá lên để
bán hưởng lợi.
Có người có đến 4 căn nhà to
đùng trong khi nhu cầu không có. Lúc đó, ai cũng “phấn khởi” vì giá nhà vẫn
đang lên, cao hơn so với giá mua khá nhiều. Nhẩm tính tiền lãi, ai nấy cũng
rộng tay chi xài nhiều hơn thường lệ.
Thật vậy, sau này nhìn lại,
người ta bảo lúc đó cho vay mua nhà ở Mỹ khá dễ dàng, những tiêu chí về nguồn
thu nhập để trả nợ bị xem nhẹ - từ đó mới có từ “nợ dưới chuẩn”.
Bong bóng bất động sản thu hút
nhiều người tham gia (đến 40% mua nhà để đầu tư chứ không phải để ở) chừng nào
giá nhà vẫn tăng đều đặn (tăng đến 124% từ năm 1997 đến năm 2006). Đến giữa năm
2006 lúc giá nhà đã lên đến đỉnh và bắt đầu giảm nhanh, vấn đề nợ dưới chuẩn nổ
ra.
Tiền vay mua nhà thường có lãi
suất thả nổi và khi lãi suất tăng mạnh, nhiều người mất khả năng chi trả tiền
nhà hàng tháng cho ngân hàng. Ngân hàng, trước đó, đã gói những hợp đồng vay
tiền mua nhà trả góp đó thành sản phẩm tài chính, đem bán trên thị trường chứng
khoán. Các tập đoàn tài chính ôm lấy những loại chứng khoán không còn sinh lợi
này bắt đầu rơi vào tình trạng khó khăn, có nơi phá sản. Khủng hoảng nổ ra mà
hiệu ứng vẫn còn kéo dài cho đến tận bây giờ.
Bài học nợ dưới chuẩn ở Mỹ là sự dễ dãi của giới ngân hàng khi cho vay rồi
sự lừa dối của nhiều bên liên quan khi biến nợ thành sản phẩm chứng khoán, mua
bán trên thị trường làm lây lan một cuộc khủng hoảng lẽ ra chỉ giới hạn trong
lãnh vực bất động sản.
Ở đây vấn đề tín dụng rẻ, dễ
dãi cũng là thủ phạm; tiền cũng chạy từ nhiều nước vào Mỹ nên khủng hoảng quay
ngược ảnh hưởng trở lại nhiều nước. Tỷ lệ nợ dưới chuẩn tăng nhanh lên đến 20%
tổng dư nợ cho vay mua nhà và hậu quả là tháng 10-2007, tỷ lệ nợ xấu buộc phải
tịch biên nhà lên 16%, tăng lên 21% vào đầu năm 2008 và 25% vào tháng 5-2008.
Trở lại Mỹ vào năm 2010, gặp
nhau, người ta không còn kể chuyện mua nhà nữa mà là chuyện “kéo nhà”, tức là
nơi cho vay tịch biên nhà, bán để thu hồi nợ. Người nào trước đây mua càng
nhiều nhà, giờ càng bạc tóc vì lo vì trở thành con nợ không lối thoát.
Nợ xấu
Việt Nam
Mới nhìn qua vấn đề nợ xấu
Việt Nam cũng có những căn nguyên tương tự: tín
dụng dễ dãi, dư nợ tăng vọt, tiền đổ vào nhiều, bất động sản nóng sốt, chứng
khoán lên ngôi, thúc đẩy nhiều dự án hoành tráng chỉ để làm tăng giá trị cổ
phiếu. Đến khi chứng khoán suy sụp, thị trường bất động sản đóng băng và nhất
là khi tín dụng bị siết chặt, nợ xấu bùng phát.
Nhưng nợ xấu ở Việt Nam không giống ở Thái Lan thời thập niên
1990 ở góc cạnh không phải là nợ nước ngoài. Dư nợ của hệ thống ngân hàng Việt Nam chủ yếu là từ trong nước.
Cho đến nay áp lực của nợ xấu
lên tỷ giá là chưa đáng kể, nên không gây ra áp lực phá giá đồng tiền.
Nợ nước ngoài của Việt Nam
tăng khá nhanh, từ 31,4% GDP năm 2006 lên 41,5% GDP năm 2011 nhưng chủ yếu là
các khoản vay dài hạn của Chính phủ như vốn vay ODA chứ vay thương mại chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ. Giả thử có thêm vài ba khoản nợ xấu có nguồn gốc nước ngoài
như các khoản vay của Vinashin bị Elliott đòi như vừa qua thì tình hình đã rối
ren hơn nhiều.
Các gói nợ xấu của Việt Nam cũng chưa bị đóng gói thành sản phẩm
chứng khoán để đem ra bán nên tác động của nợ xấu chưa mang tính lây lan mạnh
như cuộc khủng hoảng ở Mỹ.
Tuy nhiên nợ xấu Việt Nam lại mang những đặc điểm đáng lo ngại
không kém.
Đầu tiên là sự thiếu vắng
những con số chính xác, được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem như chuyện bình
thường. Trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội, Thống đốc Nguyễn Văn Bình
đưa ra hai con số: “Theo số liệu báo cáo của các tổ chức tín dụng, đến ngày
30-9 thì nợ xấu là 4,93%. Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước thì con số này
nằm ở khoảng 8,82%”.
Các ngân hàng báo cáo một
đằng, đánh giá của NHNN một nẻo mà lại không có biện pháp gì chấn chỉnh, ít
nhất về mặt báo cáo số liệu là chuyện khó chấp nhận. Muốn có những giải pháp
tốt cho vấn đề nợ xấu thì trước tiên phải có thông tin chính xác về nợ xấu.
Thứ hai, nguồn gốc nợ xấu chủ
yếu do doanh nghiệp nhà nước hay chính quyền các cấp. Chỉ tính riêng tập đoàn
Vinashin, các khoản nợ đến hạn phải trả hàng năm từ lúc nổ ra khủng hoảng lên
đến hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm. Vinashin bất lực, không trả được, chúng đã
biến thành nợ xấu của các ngân hàng!
Hàng loạt doanh nghiệp nhà
nước như thế hiện là con nợ khó đòi. Theo một báo cáo, doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70% tổng nợ xấu.
Bên cạnh đó, nợ đọng xây dựng
cơ bản mà con nợ là các bộ, ngành và chính quyền địa phương cũng làm nhiều nhà
thầu trở thành con nợ xấu của ngân hàng. Con
số nợ đọng này lên đến 90.000 tỷ đồng nhưng bao nhiêu phần trăm biến thành nợ
xấu thì không có số liệu.
Như thế, giải quyết nợ xấu trở
thành chuyện của nhà nước, phải tính đến chuyện khoanh nợ, tái cấp vốn – tất cả
sẽ đè nặng lên ngân sách vốn đã eo hẹp. Nếu không, làm sao có chuyện ngân hàng
phát mãi tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước, có ai dám bán tài sản của
các doanh nghiệp này dưới giá sổ sách, đất đai được cấp nay giải quyết làm sao?
Loại trừ khoản nợ xấu nói
trên, phần còn lại thiết nghĩ không khó giải quyết. Lúc đó bài học giải quyết
nợ xấu ở Thái Lan hay ở Mỹ sẽ rất hữu ích.
* Đó là mạnh dạn cho đóng cửa
những ngân hàng nào yếu kém, cho vay bất chấp rủi ro, định giá tài sản thế chấp
sai lầm, lại không chịu trích lập dự phòng đầy đủ…
** Đó là sửa đổi Luật Phá sản
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bất động sản có lối thoát, tự nhiên giá
cả sẽ quay về mức xã hội chấp nhận được và một phần lớn nợ xấu sẽ được thu hồi.
Không lẽ chúng ta phải đợi
những hệ quả của nợ xấu xảy ra như phá giá đồng tiền ở Thái Lan, vỡ nợ tại
nhiều ngân hàng ở Mỹ… lúc đó mới chịu có biện pháp mạnh tay?
NGUYỄN VẠN PHÚ
......../.