Chúng ta bị công lí của chính mình đè bẹp
Lưu Hiểu Ba
Phạm Thị Hoài dịch
Tiểu
luận sau đây của Lưu Hiểu Ba được in trên tờ Central
Daily Newsở Đài Loan ngày 5-6-1993, nhân 4 năm Sự
kiện Thiên An Môn. Lời phê bình các khuyết điểm của giới trí thức phản kháng
Trung Quốc và phong trào sinh viên năm 1989 xuất phát từ trải nghiệm trực tiếp
của ông. Khi phong trào nổ ra, ông đã bỏ dở chương trình nghiên cứu và giảng
dạy của mình tại một số trường đại học Hoa Kỳ, mua một tấm vé không khứ hồi bay
về Bắc Kinh ngày 27-4-1989 để hỗ trợ các sinh viên của mình trên Quảng trường.
Tại đây, ông hướng dẫn và tranh luận với các sinh viên về phương pháp và mục
đích đấu tranh, tham gia những cuộc đàm phán giữa sinh viên và chính quyền, và
tham gia tuyệt thực ở giai đoạn cuối từ ngày 2-6. Ông bị coi là một trong những
kẻ “giật dây” của phong trào và bị kết án tù lần thứ nhất, đến đầu năm 1991.
Song ngay cả với tiểu sử ấy, các ý kiến phê phán của ông vẫn gây sóng gió trong
phong trào dân chủ Trung Quốc, nhất là với những gia đình nạn nhân của vụ thảm
sát 4-6.
Giới
thiệu tiểu luận này trong bản dịch tiếng Việt, tôi tin rằng nó sẽ là một tham
khảo bổ ích cho phong trào dân chủ Việt Nam .
Người
dịch
_______________
Giới trí thức phản kháng và các lãnh tụ
sinh viên Trung Quốc, những người tự thấy mình là anh hùng và chiến sĩ dân chủ,
đều chỉ biết đến dân chủ từ sách vở.
Họ không có khái niệm gì về việc thực hành
nền dân chủ đó.
Họ không hề biết phải xây dựng nền dân chủ
như một hệ thống chính trị và một tòa nhà pháp lí như thế nào và phải đưa những
nội dung gì vào đó. Trước khi phong trào dân chủ năm 1989 nổ ra, nhà vật lí
thiên văn, giáo sư Phương Lệ Chi, được coi là một Sakharov của Trung Quốc, đã
bỏ qua cơ hội bảo vệ quyền con người theo đúng luật pháp. Ông được Tổng thống
Bush mời gặp nhưng bị chính quyền cản trở. Và ông đã lặng lẽ chấp nhận, không
một lời phản đối. Cả đến khi phong trào dân chủ bùng nổ, ông Lưu Tân Nhạn, nhà
bất đồng chính kiến được coi là “lương tâm xã hội của Trung Hoa”, vẫn đề cao
chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội. Vẫn giữ nguyên lòng trung thành từng mất
rồi lại được khôi phục của mình. Còn phong trào hiện tại thì được lãnh đạo bởi
những người thậm chí không hiểu cả những nguyên lí cơ bản của dân chủ.
Như thế, làm sao mà thành công được?
Tình trạng đó chỉ có thể sinh ra những than
vãn hời hợt về hệ tư tưởng.
Khi cảm giác về nghĩa vụ gánh vác một sứ
mệnh lịch sử bị đẩy lên thái quá, các sinh viên đã đánh mất khả năng tỉnh táo
để tự nhận định và khả năng tự kiềm chế để đạt hiệu quả cao. Họ không biết rằng
những đôi vai mảnh khảnh của họ không gánh nổi một định mệnh nặng trĩu như vậy.
Họ không cưỡng được sự cám dỗ rằng mình có thể đem lại công lí và tưởng rằng cứ
lấy sinh mạng ra trả giá thì chính quyền sẽ buộc phải nhượng bộ hơn – mà không
hề nhận ra rằng điều đó rốt cuộc là vô nghĩa.
Mạng người có gây nổi một ấn tượng nào với
chính quyền không?
Có đánh thức nổi đám đông đang ngủ vùi
không?
Cái chết có đem đổi lấy công lí được không?
Chẳng lẽ chỉ những ai sẵn sàng hi sinh tính
mạng mới có quyền bàn về công lí chăng? Người ta trách các sinh viên là chỉ đầy
lòng dũng cảm và nhiệt huyết mà không đủ lí trí. Không có gì đáng ngạc nhiên,
khi cô Sài Linh, lãnh tụ đứng đầu phong trào sinh viên, sau này thoát được ra
nước ngoài tị nạn, phát biếu: “Trên Quảng trường Thiên An Môn khi đó, quan
trọng nhất là đức hi sinh và lòng dũng cảm chứ không phải đầu óc và lí trí.
Chúng tôi là những anh hùng của phong trào dân chủ 1989.”
Từ trên bốn thập kỉ nay Trung Quốc không hề
có kinh nghiệm gì với dân chủ.
Hàng ngày chúng ta chỉ trải qua và chứng
kiến những tranh giành và thủ đoạn tàn bạo của hệ thống chuyên chế. Khi tham
gia một cuộc cách mạng, chẳng hạn như Cách mạng Văn hóa, chúng ta lập tức thấy
mình là những nhà cách mạng vĩ đại nhất. Khi gia nhập phong trào dân chủ, chúng
ta thấy mình dân chủ hơn người. Chúng ta tuyệt thực cho dân chủ. Chúng ta hi
sinh cho dân chủ. Vì thế chúng ta đinh ninh rằng mọi hành động của mình đều bắt
nguồn từ công lí cao nhất, rằng tiếng nói của mình là chân lí duy nhất, rằng
mình sở hữu quyền lực tuyệt đối.
Như thế, chân lí trở nên tuyệt đối, công lí
trở nên tùy tiện và dẫn đến cưỡng bức, còn dân chủ thì trở thành một đặc quyền.
Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành một
phòng thí nghiệm thử chân lí, thử độ cứng của bản lĩnh và độ sâu của ý thức về
phẩm giá. Nó cũng đã biến thành nơi mà người ta vừa dấn thân cho công lí, vừa
thực thi quyền lực. Không có mặt ở đó, không đến đó để bày tỏ con người mình,
là chống lại dân chủ và chống lại công lí, là hèn nhát.
Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành hòn
đá thử lửa. “Tôi đã có mặt ở đó”, “Tôi cũng từng đến đó”, những câu nói ấy đã
được coi là chứng chỉ của ý thức dân chủ và lương tri xã hội.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành
dân chủ, chúng ta không cần hợp tác, chúng ta tùy ý kết bè kéo cánh, chúng ta
lập ra các tổ chức, chúng ta cử người lãnh đạo, chúng ta lập các hội công nhân
và sinh viên tự quản, chúng ta tuyệt thực, chúng ta tổ chức các nhóm tranh
luận, các nhóm trí thức, phóng viên, cảm tử quân, chí nguyện quân và hướng đạo
sinh. Không ai chịu nghe ai, chẳng người nào chịu dưới trướng người nào.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành
dân chủ, chúng ta căm thù Đảng Cộng sản tột độ và lên án Đảng bằng những bộ
quần áo đẫm máu trên thân thể chúng ta. Chúng ta nghiến răng chửi kẻ khác,
chúng ta thỏa sức bôi nhọ, chúng ta cho phép mình nói những điều như: chúng tao
sẽ bắn vỡ sọ mày, chúng tao sẽ bỏ mày vào vạc chiên, chúng tao sẽ chôn sống
mày. Chúng ta cho phép mình chửi rủa và thậm chí hành hung những kẻ không đi
cùng chúng ta. Chúng ta cho phép mình thanh toán ân oán giang hồ cá nhân, nhân
danh công lí.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành
dân chủ, chúng ta ngang nhiên truyền bá những điều bịa đặt, chúng ta phao tin
vịt giữa thanh thiên bạch nhật. Ai phản bác thì chúng ta khăng khăng rằng mình
có quyền làm như thế hoặc tìm cách đánh lận rẻ tiền.
Chúng ta cho phép mình phao lên rằng Đặng
Tiểu Bình đã chết, Lý Bằng đã bỏ trốn, Dương Thượng Côn đã bị đánh đổ, Triệu Tử
Dương đã được khôi phục danh dự, Vạn Lý đã thành lập một nội các mới ở Canada.
Quảng trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong
trào dân chủ, biến thành một lò chế tin đồn, càng ngày càng tung ra nhiều điều
dối trá.
Một số người tham gia sự kiện ngày 4 tháng
Sáu sau này thoát được ra nước ngoài thì đảo lộn tình tiết, thêu dệt tin đồn và
dùng miệng mà phun ngập máu ra Quảng trường. Để có lợi cho bản thân, họ cố ý
phóng đại tội ác và sự tàn bạo của Đảng Cộng sản. Báo chí quốc tế vì thế mà bị
xỏ mũi.
Chúng ta làm cách mạng, chúng ta thực hành
dân chủ, chúng ta chỉ cho riêng mình quyền tự do ngôn luận và cấm người khác
được hưởng quyền ấy.
Chúng ta cũng hành xử hệt như Mao Trạch
Đông và không dung thứ một chính kiến nào khác. Hệt như đám tay sai của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, chúng ta cũng kiểm duyệt những hình ảnh không hợp ý ta do
phóng viên chụp được, chúng ta cũng tịch thu phim và đập nát máy ảnh. Để chính
quyền hết cớ đàn áp, chúng ta đã nộp cho công an ba thanh niên Hồ Nam, là những
người đã phun mầu lên chân dung Mao, để rồi họ bị kết án 15, 18 và 20 năm đọa
đày trong ngục tối.
“Công lí của phong trào dân chủ” đã trở
thành một sự hăm dọa, hễ ai có chính kiến khác là bị gây áp lực và đành câm
miệng. Cuộc tuyệt thực đã phong các sinh viên lên hàng những vị thánh bất khả
xâm phạm của cách mạng. Vì họ sẵn sàng hi sinh mạng sống, nên chẳng ai dám hé
răng phê bình họ nữa. Vậy là các “anh hùng” thì tắt công tắc lí trí, những
người còn lại thì lặng im.
Những điều vừa trình bày có thể giải thích,
vì sao một công lí trên giấy thì được săn lùng cuồng nhiệt, còn công lí tỉnh
táo của hiện thực thì bị gạt ra ngoài.
.........../.
Nguồn: Dịch
theo bản tiếng Đức trong Bei Ling, Der
Freiheit geopfert, Riva, München 2011
Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra - http://www.procontra.asia/?p=1512