HỒ CHÍ MINH ĐÃ CHUẨN BỊ CUỘC CHIẾN NHƯ THẾ NÀO ?




NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ :

HỒ CHÍ MINH ĐÃ CHUẨN BỊ CUỘC CHIẾN NHƯ THẾ NÀO ?

Ngô Nhật Đăng

***

Sau khi đảo chính người Pháp, nước Nhật đã làm chủ Đông Dương, một cơ hội độc lập cho Việt Nam được mở ra với việc thành lập chính phủ Trần Trọng Kim, tuy người Nhật không thực lòng nhưng với sự khéo léo trong ngoại giao, quan điểm nhất quán trong vấn đề độc lập cho đất nước của chính phủ TTK, cuối cùng Nhật đã phải giao quyền kiểm soát cho người Việt trên toàn quốc nhất là ở những thành phố quan trọng như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng… trong một thời điểm lịch sử đặc biệt nhạy cảm và với thời gian ngắn ngủi, chính phủ TTK đã làm được những việc to lớn mà lịch sử ngày càng soi tỏ.
Lực lượng mạnh nhất được đông đảo dân chúng ủng hộ đang hoạt động “bất hợp pháp” trong thời kỳ này là cộng sản nhưng núp dưới bóng “Việt Minh” để tránh sự kinh sợ của dân chúng khi nghe từ "cộng sản". Thay vì hợp tác, VM ra tối hậu thư với chính phủ TTK bắt phải giao toàn bộ quyền lực nếu không họ sẽ dùng sức mạnh, trang sử đen tối của dân tộc bắt đầu mở ra. Một lãnh tụ kiệt xuất của họ xuất hiện, một cái tên xa lạ mà trước đó không ai biết : Hồ Chí Minh.
Sau bước lùi “tổng tuyển cử” năm 46 với việc thành lập chính phủ nhiều đảng phái, ông Hồ sửa chữa khuyết điểm này bằng việc ban hành Sắc lệnh về quyền hạn Chủ tịch nước ngay sau khi nắm quyền, Chủ tịch nước sẽ không phải chịu trách nhiệm trước bất cứ hành động nào của Quốc hội, chính phủ trừ “tội phản quốc”. Và thanh trừng đối lập bắt đầu bằng cả những thủ đoạn đê tiện như bôi nhọ, bắt cóc, ám sát vv…
Một cơ hội độc lập nữa được mở ra, đó là Hiệp định Sơ bộ năm 46, nước Pháp bại trận trong thế chiến 2, các tư tưởng triết học mới ra đời ở Tây Âu, dân chúng châu Âu đã học được bài học đẫm máu của thế chiến vv…đã mở ra một thời kỳ “xả thuộc địa”, chủ nghĩa thực dân cũ đang bước vào giai đoạn cáo chung. Nếu khéo léo, mềm dẻo và chịu nhượng bộ giai đoạn đầu trong chính sách ngoại giao thì Việt Nam sẽ được “trao trả độc lập” như một số thuộc địa của Anh và Pháp là điều chắc chắn. Nhưng ông Hồ đã chọn chiến tranh. Những tư liệu về thời kỳ này lúc ông HCM sang Pháp và phái đoàn VN gặp gỡ phía Pháp tại Đà Lạt với những chỉ thị của ông Hồ về quan điểm cứng rắn quyết không chịu lùi đã chứng tỏ chiến tranh là điều không thể tránh khỏi.
9 năm kháng chiến với giá của 2,5 triệu sinh mạng người Việt gồm binh lính và dân thường của cả 2 phía đã đưa lại kết quả : Đất nước bị chia cắt thực sự. Điều sẽ không xảy ra nếu năm 46 VN có một chính phủ đa đảng thật sự. Một bước lùi với giá máu xương.
Với tham vọng của mình, HCM nhất định sẽ không chịu lùi bước. Ông ta đã chuẩn bị chiến tranh ngay từ trên đống hoang tàn đổ nát. Những tư liệu chứng minh về vai trò quyết định của HCM chưa được bạch hóa hết, nhưng nó cũng được phát lộ qua những người thân cận ông. Trong “Chân dung và đối thoại”- Trần Đăng Khoa, Tố Hữu kể, khi mọi người đang say sưa với Điện Biên Phủ, ông Hồ đã nói : “Làm gì mà các chú hoắng lên thế ? Phải chuẩn bị đánh nhau với thằng Mỹ”. Quả nhiên là vậy, Tố Hữu đã ca ngợi “Bác có tầm nhìn xa thiên tài”.
Ở miền Bắc, sau khi tiêu diệt mọi sự đề kháng của xã hội với các cuộc “cách mạng long trời lở đất” được tiến hành vô cùng tinh vi, bài bản như : Chỉnh huấn, chỉnh quân, cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, chính sách “kinh tế mới” hồi đó gọi là “đi khai hoang xây dựng quê hương mới”, đàn áp trí thức qua vụ “Nhân văn Giai phẩm” vv…Nền đạo đức lâu đời của dân tộc bị xóa sổ, môi trường sống đảo lộn, những thành phần tiềm ẩn nguy hiểm ở thành thị được đưa về những vùng xa xôi “ma thiêng nước độc”….hơn 150.000 người đã bị hành quyết trong thời gian này, sức đề kháng của toàn bộ xã hội bị tê liệt.
Ông Hồ bắt đầu xây dựng thiên đường cho giai cấp ít học, bần cố nông có sức mạnh man rợ, tàn ác, vô nhân tính để thay thế cho các giai cấp khác bị liệt vào thành phần : “Kẻ thù của nhân dân”. Coi đồng bào như “kẻ thù” để thẳng tay giết hại, nhưng lương tâm vẫn thanh thản vì đinh ninh là đang xây dựng một xã hội mới, đám kia chỉ là “sâu bọ” hoặc “cục phân”…quả là HCM đã đạt đến đỉnh điểm của một bạo chúa, vượt xa tất cả các bạo chúa khác từng có mặt trong lịch sử.
Với sự viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô, miền Bắc bắt đầu “xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”. Các khu công nghiệp như Gang thép Thái Nguyên, thành phố công nghiệp Việt Trì và một số nhà máy được xây dựng vừa phát triển kinh tế vừa chuẩn bị cho chiến tranh như nhà máy Phân đạm Bắc Giang vừa sản xuất phân bón nhưng quan trọng hơn là sản xuất thuốc súng, một số nhà máy cơ khí, bên ngoài là làm máy cày, nhưng sau lưng là chuẩn bị chế tạo xe tăng, công trình thủy nông vĩ đại Bắc- Hưng- Hải hoàn thành biến những cánh đồng “chiêm khê, mùa thối” của 3 tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương thành vùng lúa 2 vụ năng suất cao. Năm 60, kinh tế miền Bắc đã bắt đầu tăng trưởng dương, cuộc sống của những người theo đảng được cải thiện đáng kể, họ được ưu tiên trong công việc,trong học tập, được chiếm nhà, tài sản của những chủ cũ là những giai cấp “tàn dư”vv… và yên tâm rằng mình xứng đáng được hưởng điều đó. Tố Hữu đã ca ngợi thời kỳ này với những câu thơ : “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” và cảm thán : “Ôi! Miền Bắc, thiên đường của các con tôi”. Đúng là không còn gì rõ hơn, nhất là nhìn vào cuộc sống của các COCC (con ông cháu cha), các Thái tử Đảng ngày nay.
Ở miền Nam, việc chuẩn bị chiến tranh cũng được tiến hành. Một kế hoạch vô cùng thâm độc được thực hiện, hàng chục vạn cán binh ở miền Nam được “tập kết ra Bắc” với tiêu chí : Trẻ, có sức khỏe (những người này góp phần rất lớn trong việc xây dựng miền Bắc, đặc biệt trên công trình thủy nông Bắc- Hưng- Hải), những người có uy tín, những trí thức cảm tình với cộng sản. Để lại những người già yếu, thương phế binh làm gánh nặng cho VNCH. “Mưu” cao hơn, hàng loạt các đám cưới được tổ chức, có những đám cưới tập thể hàng trăm cặp được tiến hành dưới sự chủ tọa của các “thủ trưởng”. Hàng chục vạn cô dâu mới đã mang trong tim mình hình ảnh người chồng thân yêu ra miền Bắc với lời thề “Sau 2 năm sẽ trở lại”, cùng với họ là người thân, gia đình, cha mẹ, bà con vv…đông gấp nhiều lần, một lực lượng tiềm năng của ông HCM.
Sau 2 năm, từ năm 56 đã có những người tập kết “vượt tuyến về Nam” trong hành trang của họ là những bức thư, những tấm hình của người thân ở miền Bắc, ca ngợi cuộc sống tốt đẹp của “thiên đường XHCN”, công ơn và tấm lòng của Bác Hồ với “miền Nam ruột thịt”, yêu cầu giúp đỡ những “đồng chí” của mình. Ngả về phía nào, chắc không khó đoán, với những người không chịu hợp tác thì thân nhân sẽ trở thành “con tin” trong việc cưỡng ép họ. Việc một số đông đảo “nằm vùng”, “ăn cơm Quốc gia thờ ma Việt cộng”, các cơ sở quần chúng “nuôi VC” xuất hiện… là điều khó mà cưỡng được. Một số đã len lỏi, nắm những chức vụ khá cao trong chính quyền, mạng lưới tình báo được hoàn thiện, với những người “kiệt xuất” như điệp viên Phạm Xuân Ẩn.
VNCH bắt buộc phải tìm cách đối phó, một số trường hợp đơn lẻ xử lý vụng về, quá đà như bắt bớ, giam cầm, tra tấn…được khai thác triệt để. Miền Bắc bắt đầu xuất hiện “Những lá thư từ miền Nam gửi ra” tố cáo “chế độ tay sai” được tuyên truyền ầm ĩ. Một sự kiện gây xúc động trên toàn miền Bắc vào năm 1957, đó là “Vụ đầu độc Phú Lợi”. Một chiến dịch truyền thông vĩ đại, các cuộc mít-tinh, biểu tình được tổ chức khắp các tỉnh thành miền Bắc tố cáo tội ác Ngô Đình Diệm đã đầu độc làm chết hàng nghìn tù nhân ở trại giam Phú Lợi, những người có con em đang tập kết. Tố Hữu làm bài thơ gây xúc động , với câu kết : “Thù muôn đời, muôn kiếp không tan”, đọc lên ai cũng khóc ròng ròng.
Người miền Bắc chít lên đầu vành khăn tang trắng, những người miền Nam tập kết lũ lượt trích máu viết đơn xin “về Nam” để trả thù, thanh niên miền Bắc phát động phong trào “Ba sẵn sàng” chuẩn bị “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai” vv….với sự chuẩn bị của các cán bộ phái vào Nam từ trước và sự ủng hộ của một bộ phận dân chúng, miền Nam thành lập các đơn vị vũ trang tại chỗ, “Mặt trận giải phóng Dân tộc miền Nam” được thành lập, phong trào Đồng khởi nổ ra….Ông HCM xoa tay chờ đợi.( Sau năm 75 vào SG, tôi có tìm hiểu sự việc này, thì ra có mấy người tù ăn phải thức ăn bị thiu, ông Diệm cho xe chở đi cấp cứu. Có một nhân chứng là Sơn Nam, nhưng nhà văn này chưa bao giờ nói ra).
Với tầm nhìn chiến lược và bài học từ cuộc chiến ở Cao Ly (Triều Tiên), ông HCM dự đoán khả năng người Mỹ sẽ vào cuộc. Một lý do trời cho để ông giành lấy “Chính nghĩa”. Có người nhận định : “HCM đã dụ người Mỹ nhảy vào VN”, chính xác, một cái bẫy do một người thông minh đã được đặt ra, cành đào gửi TT Ngô Đình Diệm vào dịp Tết, cuộc gặp bí mật của Ngô Đình Nhu với cán bộ CS được tổ chức, ông Nhu ngây thơ tuyên bố với phóng viên Mỹ : “Tôi không coi những người cộng sản là kẻ thù, mà là những người anh em lầm đường lạc lối”- VN thiên lịch sử truyền hình. Đệ nhất VNCH bị đảo chính mà vai trò quyết định là người Mỹ. Đỉnh điểm, khi người Mỹ vụng về ngụy tạo ra “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” để lấy lý do ném bom miền Bắc, chỉ chờ có thế, ông Hồ lập tức lên đài phát thanh, với tài hùng biện của mình tuyên bố : “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá. Nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ. KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO”.

Khi người Mỹ đổ quân vào miền Nam, các đơn vị chủ lực của miền Bắc với chính danh “đánh đuổi xâm lược” được lên đường, những chỉ thị tuyệt mật là tuyệt đối tránh giao chiến với quân lực VNCH, khẩu hiệu “Tìm Mỹ mà đánh” được quán triệt. Các cuộc giao tranh với VNCH thường là quân VC, người Mỹ cũng bị thương vong cao hơn trong thời gian này. Một nhân chứng là bộ đội miền Bắc kể với người viết bài này rằng anh đã bị shock khi lần đầu đụng độ với binh sỹ VNCH, đối phương hô xung phong bằng tiếng Việt, có cả tiếng miền Bắc, chính vì thế mà anh đảo ngũ.
Một người như HCM, không thể không tính đến việc ông sẽ bị lịch sử phán xét. Một “hình nhân thế mạng” được nhắm đến để chạy tội, một người miền Nam sắt máu là Lê Duẩn được đưa ra miền Bắc với cương vị Bí thư thứ nhất (ĐCS).Những ý kiến ôn hòa như xây dựng miền Bắc, thống nhất đất nước bằng hòa bình bị dập tắt, hàng loạt cán bộ, trí thức bị bắt trong vụ án nổi tiếng : “Xét lại chống Đảng”.
Một huyền thoại được dựng lên : “Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã vô hiệu hóa quyền lực của HCM”, tiếc thay một số mang danh “trí thức” vẫn còn tin vào luận điểm này. Một điều mà người viết vô cùng đau đớn là, hiện nay nhiều người vẫn chưa nhìn ra, làm đổ VNCH, góp phần lớn nhất chính là những người miền Nam, những kẻ nằm vùng, những người ngây thơ chưa hiểu rõ cộng sản, những kẻ nội tuyến “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, những người đào hầm bí mật nuôi cán bộ, cả những người tu hành nữa trong “phong trào Phật giáo miền Nam” góp phần lớn trong vụ đảo chính TT Ngô Đình Diệm vv…
KHÔNG PHẢI LÀ TRÁCH MÓC VÌ NÓ CHỈ GÂY THÊM CHIA RẼ, NHƯNG CHÚNG TA HÃY NHÌN THẲNG VÀO LỊCH SỬ DÙ CÓ ĐAU ĐỚN ĐỂ ĐỪNG MẮC MƯU MỘT LẦN NỮA.
SỰ KÍCH ĐỘNG CHIA RẼ VÙNG MIỀN HIỆN NAY ĐÃ TRÁNH CHO THỦ PHẠM CHÍNH BỊ ĐƯA RA ÁNH SÁNG ĐÓ LÀ HỒ CHÍ MINH.

Nhà văn Võ Phiến viết trong “Bắt trẻ đồng xanh” :
" Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. - Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. - Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.
Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam!".
Mong lắm thay.

.........../.