30 THÁNG 4: TẢN
MẠN NHÂN VẬT LỊCH SỬ DƯƠNG VĂN MINH
*
Trần
Văn Chánh
Trong
lịch sử cận-hiện đại của Việt Nam nói chung và miền Nam Việt Nam sau Hiệp định
Genève 1954 nói riêng, trường hợp nhân vật lịch sử Dương Văn Minh (1916-2001)
có lẽ khá đặc biệt, và không ít người đã coi ông là một vị tướng
lãnh “có vấn đề”. Ông sống nói chung trong sạch, bề ngoài có vẻ luôn khiêm tốn
hiền lành nhưng toàn tham gia những đại sự quân chính có tác dụng đảo chuyển
hướng đi của lịch sử.
Vào thời kỳ đầu của Việt
Nam Cộng Hòa, dưới thời Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh đã từng được coi là anh
hùng trong thành tích đánh dẹp lực lượng Bình Xuyên (năm 1954) ở khu Rừng Sác
(ngoại vi Sài Gòn) và dẹp tan quân đội của giáo phái Hòa Hảo (năm 1956), được
thăng chức Trung tướng (5.1.1956). Hai đại sự khác trong đời ông là việc năm
1963 với tư cách Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng ông cầm đầu nhóm tướng
lãnh đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và việc năm 1975 với tư cách Tổng
thống đã quyết định đầu hàng không điều kiện “đối phương” miền Bắc để kết thúc
gọn nhẹ cuộc chiến tranh thảm khốc 30 năm, lập lại hòa bình cho dân tộc Việt.
Sở dĩ bị coi là vị tướng
“có vấn đề” vì trong cả hai trường hợp vừa nêu trên, ông có những chỗ rất dễ bị
chỉ trích bởi một số người khác biệt quyền lợi hoặc không đồng quan điểm. Đây
cũng là một lẽ rất thường tình, bởi nếu ông Minh chỉ là một kẻ tầm thường vô
dụng, không lý tưởng, chỉ biết sống “dĩ hòa vi quý” cho được vinh thân phì gia
như bao người khác thì có lẽ chẳng ai cần nhắc gì tới ông, kể cả việc chỉ trích
ông thậm tệ nhất đi nữa.
Liên quan cuộc đảo chánh
1.11.1963, trừ ra một số người sùng bái ông Diệm mà quyền lợi của họ vốn gắn
chặt với chế độ Đệ nhất Cộng hòa, còn thì đa số nhân dân miền Nam lúc đó đều
hoan nghênh ủng hộ.
Về lịch sử/ diễn biến
cuộc đảo chánh, đã có rất nhiều sách báo/ tài liệu đề cập chi tiết nên ở đây
xin khỏi nhắc lại. Chỗ có vấn đề đang nói cho đến nay vẫn còn nhiều người thắc
mắc, đó là việc ông Minh có phải hay không là người ra lệnh cho những người
dưới trướng ông hạ sát Tổng thống Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu trên chiếc xe bọc
sắt M 113 một cách thảm thiết quá, trên đường chở hai ông Diệm-Nhu về Bộ Tổng
tham mưu ngày 2.11.1963 để xử lý, thay vì theo truyền thống văn hóa chính trị,
phải để cho hai nhân vật lãnh đạo này được lưu vong sang xứ khác? Ngoài ra,
nhắc lại việc này, một số người còn tố cáo ông Minh là kẻ phản bội tàn ác, vì
con đường binh nghiệp của ông được thăng tiến nhanh chóng có một phần quan
trọng là nhờ ở Tổng thống Ngô Đình Diệm…
Cho đến cuối đời, sống ở
Pháp rồi ở Mỹ, vì là việc quá tế nhị, nhóm đảo chánh của ông Minh (gồm cả Trần
Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính…) không ai dám hé môi nói rõ việc này.
Tuy nhiên, cũng có vài chi tiết được hé lộ trong hồi ký của một vài chứng nhân,
qua đó chúng ta có thể đánh giá tương đối chính xác.
Hồi ký Tâm sự tướng lưu vong của Hoành
Linh Đỗ Mậu (NXB Công An Nhân Dân, 1995, tr. 502-503), có đoạn kể, ngày
2.11.1963, ông Mậu thấy các tướng đảo chánh gồm Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Mai
Hữu Xuân và Đại tá Dương Ngọc Lắm đang xầm xì bàn tán có vẻ bí mật, đến hỏi thì
tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ) trả lời rất nhỏ, “Anh em đang bàn định cách đối
xử với ông Diệm, nên giết hay nên cho ông ta xuất ngoại”. Ông Mậu phát biểu
không đồng ý giết ông Diệm[1] thì
tướng Nguyễn Ngọc Lễ nói to lên: “Xin anh em đừng nghe lời anh Mậu, đã nhổ cỏ
thì phải nhổ cho tận rễ”. Thấy không ai phản đối tướng Lễ mà có vẻ im lặng đồng
ý, Đỗ Mậu bèn nói thêm: “Việc tha hay giết ông Diệm là hành động lịch sử, vậy
muốn tha hay giết ông ta, tôi đề nghị phải lấy quyết định tối hậu qua một cuộc
bỏ phiếu kín, phải ghi vào biên bản đàng hoàng”. Đỗ Mậu cho biết tiếp: “Tất cả
mọi người lại im lặng không có ai tỏ ra tán đồng ý kiến của tôi. Còn tướng
Dương Văn Minh thì nhún vai tỏ thái độ bất mãn với tôi… Sau đó tướng Minh ra
lệnh cho tướng Mai Hữu Xuân, Đại tá Dương Ngọc Lắm, Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa
và Đại úy Nguyễn Văn Nhung đi đón hai ông Diệm-Nhu tại nhà thờ Cha
Tam”.
Đỗ Thọ (cháu gọi Đỗ Mậu
bằng chú ruột) lúc đó là sĩ quan tùy viên thân cận nhất của Ngô Đình Diệm,
người đã theo sát đến phút chót bên cạnh hai ông Diệm-Nhu trên đường trốn từ
Dinh Gia Long đến nhà thờ Cha Tam, trong một đoạn hồi ký cũng có nhắc lại sự kiện
gần giống như trên: “Chú tôi (tức Đỗ Mậu- TVC) nói rằng luôn luôn kính trọng
thương tiếc Tổng thống Diệm. Vụ 1.11.1963 chỉ cốt lật đổ ông bà Ngô Đình Nhu.
Đưa Tổng thống Diệm lên Đà Lạt hoặc Côn Đảo trong một thời gian. Nhưng quyết
định này đã có nhiều tướng lãnh không chịu. Trong đó có tướng Dương Văn Minh,
Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân” (Nhật ký Đỗ Thọ, Đồng Nai xuất bản, Sài Gòn,
1971, tr. 158). Ở một đoạn tiếp theo, tác giả Đỗ Thọ còn cho biết, khi ông Nhu
không chịu lên xe M 113 để chở về Bộ Tổng tham mưu, một sĩ quan phe đảo chánh
đã gào lên: “Ông không còn là cố vấn… Và Tổng thống nữa. Hãy lên xe gấp. Chúng
tôi được lệnh Trung tướng Chủ tịch phải thi hành” (tr. 177).
Theo mấy chi tiết dẫn
chứng trên đây, chúng ta có thể thấy, việc giết hai ông Diệm-Nhu, ông Minh
không quyết định một mình, mà có sự họp bàn tập thể nhưng chỉ bàn kín hạn chế
với vài tướng lãnh chủ chốt, trong đó có các tướng Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và
Đại tá Dương Ngọc Lắm, chứ không đưa ra toàn thể Hội đồng Quân nhân Cách mạng
lấy quyết định. Còn ở một vài tướng tá khác, tuy không thấy nhắc trong đoạn hồi
ký trên kia của Đỗ Mậu, nhưng chắc chắn cũng đã được ông Minh tham khảo ý kiến
trước đó theo một cách nào đó thôi.
Theo cựu dân biểu Dương
Văn Ba, một người thân cận có vài năm sống tá túc hoạt động báo chí trong nhà
của Dương Văn Minh (ở số 3 Võ Văn Tần bây giờ), “Có sách ngoại quốc nói rõ
người điều khiển việc bắt giết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là Trung tướng Mai
Hữu Xuân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tướng Xuân là người thân tín với Dương Văn Minh.
Rất có thể tướng Xuân đã ra lệnh bắn chết Diệm, Nhu để tuyệt trừ hậu họa. Người
thi hành lệnh bắn là thiếu tá Nhung, một trong những cận vệ của tướng Minh.
Tướng Mai Hữu Xuân trực tiếp chỉ huy việc tiến chiếm Dinh Gia Long, ông chịu
trách nhiệm về cái chết của Diệm, Nhu với tư cách người chỉ huy trực tiếp trận
đánh. Nhưng một vấn đề chưa sáng tỏ là ông Xuân thi hành lệnh của Dương Văn
Minh hay tự ý quyết định tại mặt trận. Giết Diệm, Nhu để tránh hậu họa, một giả
thuyết hợp lý đối với con người mưu lược như ông Mai Hữu Xuân”. Rồi Dương Văn
Ba kết luận: “Về phần Dương Văn Minh, ông chưa lần nào lên tiếng nói rõ vấn đề
này. Dù có ra lệnh giết hay không, tướng Minh vẫn phải chịu trách nhiệm trước
lịch sử về cái chết của Diệm, Nhu” (Hồi ký Những ngả rẽ, Bản thảo
phổ biến nội bộ, tr. 26-27).
Từ khi hai anh em ông
Diệm-Nhu bị chết thảm (ngày 2.11.1963), ông Minh và đám tướng tá đồng sự của
ông không ai công khai thừa nhận mình có tham gia quyết định giết Tổng thống,
có thể vì 2 lẽ: (1) Việc giết nguyên thủ quốc gia có tiếng tăm lớn như ông Diệm
là một việc quá sức tưởng tượng theo quan niệm của Việt Nam Cộng Hòa thời đó;
(2) Các tướng tá tham gia đảo chánh trong chừng mực nào đó hầu hết đều có thọ
ơn ông Diệm trên con đường thăng tiến binh nghiệp của mình, nhưng họ bất
đắc dĩ phải hạ thủ là để “sát nhất miêu cứu vạn thử” (giết một con mèo
để cứu muôn con chuột), và cần phải “nhổ cỏ tận gốc” đề phòng nhóm ông Diệm lưu
vong nước ngoài sẽ có thể tái tập hợp lực lượng, kết hợp với ngoại bang hoặc
thành phần trong nước tìm cách phục hồi.
Xét hai lẽ nêu trên thì
thấy việc nhóm ông Minh trước sau vẫn kín tiếng không thừa nhận giết Tổng thống
Diệm cũng là một sự cận nhân tình, hầu như ai cũng vậy, vì họ sợ dư luận nghĩ
không tốt về mình. Còn việc bắt buộc phải giết Tổng thống như trong trường hợp
ông Diệm thì đó thuộc về lý do chính trị mà theo cách nghĩ của họ ngay vào thời
điểm đó, khó thể có một chọn lựa nào khác tốt hơn. Có thể rằng ông Minh và vài
người khác sau này cảm thấy áy náy trong lòng khi nghĩ lại chuyện đã qua, nhưng
đây thuộc trường hợp mâu thuẫn mà một chính khách có lương tâm dễ bị mắc phải
khi phải đối đầu với những tình huống quá phức tạp. Tuy nhiên, trên thực tế,
hành động của nhóm ông Minh đã có thể được biện minh khi kết quả cuộc đảo chánh
như được biết đã mang lại lợi ích cho đại đa số dân chúng, bằng việc loại trừ
được một chế độ có nhiều chỗ bất ổn cho dân, theo kiểu “sát nhất miêu cứu vạn
thử!”.
Đại sự thứ hai trong cuộc
đời ông Minh liên quan đến ngày 30.4.1975 lịch sử, khi đại quân miền Bắc ồ ạt
tiến sát vào Sài Gòn, quân lính Việt Nam Cộng Hòa nhiều nơi đã bị tan rã. Khi
ấy, với cương vị Tổng thống vừa được Quốc hội đưa lên trước đó chỉ 3 ngày, nhóm
chấp chính Dương Văn Minh (gồm cả Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ
Văn Mẫu…) đã quyết định “không chống cự” và sau đó tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện. Sự đầu hàng nhanh chóng này tất nhiên nhận được nhiều sự đánh giá trái
ngược nhau. Đối với “bên thua cuộc”, mỗi lần nhắc đến Dương Văn Minh, không ít
người Việt tị nạn ở nước ngoài vẫn còn oán trách, cho ông là “hàng tướng” đã
hèn nhát đầu hàng CS, “trao nước cho giặc”, để đến nỗi đất nước phải như ngày
hôm nay (theo họ là nghèo nàn lạc hậu, nạn tham nhũng tràn lan vô phương cứu
chữa, mất dân chủ này khác…). Đây là một quan điểm đánh giá có nhiều phần vội
vã, cực đoan, đơn giản, không thấy hết thực tế của hình thế thời cục lúc đó,
cũng như nhu cầu bức thiết chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình phải là mối ưu
tiên hàng đầu đối với bất kỳ nhà lãnh đạo nào biết thương dân, vì đó là nguyện
vọng thiết tha của nhân dân cả hai miền Nam, Bắc, sau khi đã bị nếm trải cuộc
chiến tranh kéo dài vô cùng khốc liệt, mà cuộc chiến tranh ấy, ai cũng biết,
không hoàn toàn do mỗi bên chủ động vì còn chịu ảnh hưởng nặng nề của các cường
quốc, trong đó cả hai bên chiến tuyến đều thường có những người là họ hàng ruột
thịt với nhau. Là một quân nhân kinh qua nhiều chiến trận, hơn ai hết ông Dương
Văn Minh là người thấu cảm với nỗi khổ của nhân dân vô tội trong chiến tranh,
và ngay cả bản thân ông, cũng có người em ruột là sĩ quan cao cấp Dương Thanh
Nhựt (Mười Tỵ) đang đấu tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa ở bên kia chiến
tuyến.
Giả định, ngày 30.4.1975,
Dương Văn Minh không chịu đầu hàng mà kiên quyết “tử thủ” thì khó thể suy đoán
sẽ còn bao nhiêu dân và quân của cả hai bên chiến cuộc tiếp tục thương vong, đổ
máu. Ngay cả những người chủ trương “tử thủ” cùng với gia đình vợ con họ vì thế
còn chưa biết số phận rồi sẽ đi đến đâu? Trong khi đó, tử thủ trong
điều kiện cận kề ngày 30.4 như đã biết thì kết quả hầu như chắc chắn phải thua,
nhưng cho dù có thắng, phía bên kia tiếp tục kháng chiến thì chiến tranh vẫn sẽ
còn kéo dài lâu hơn, 5 năm hay 10 năm nữa chưa biết chừng. Cho nên có thể nói,
ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng là một hành động sáng suốt tránh cho Sài Gòn
và cả nước không bị đổ máu thêm vô ích, trước hết vì mục tiêu hòa bình và hòa
giải hòa hợp dân tộc, vốn là chủ trương căn bản của ông, cho dù ông có chịu ảnh
hưởng bởi những ý đồ chính trị phức tạp của người Mỹ, người Pháp, hay có bị CS
móc nối hay không. Trong trường hợp này, cũng giống như trong cuộc đảo chánh
năm 1963, có lẽ phải nghĩ ông Dương Văn Minh tuy không hoàn toàn độc lập hành
động (làm sao có sự độc lập này được?), cũng không phải tiếp tay cho CS (tuy
rằng về mặt tác dụng khách quan thì có), nhưng là người đã biết khéo nương theo
diễn biến thời thế, khai thác những chỗ “ám hợp” (hợp ngầm) giữa ông với những
thế lực chi phối khác để làm lợi cho dân tộc: năm 1963 xóa bỏ chế độ độc tài
Ngô Đình Diệm, còn nay là để kết thúc cuộc chiến tranh đau khổ tái lập nền hòa
bình. Giả định, nếu được cầm quyền lâu hơn, đường lối chính trị của ông Minh
chắc chắn sẽ có nhiều điểm không giống hẳn với những người
CS.
Việc ông Dương Văn Minh
đầu hàng “giặc” trong thế thua để tránh bớt thương vong cho dân quân của cả hai
phe xem ra cũng có khía cạnh hao hao giống với quyết định giao thành cho giặc
rồi uống thuốc độc tự tử của Phan Thanh Giản, khi hùng binh của Pháp tiến đánh
Vĩnh Long tháng 6.1867. Điểm khác biệt là ở đối tượng được giao, và ông Minh đã
không tự tử như Phan Thanh Giản[2],
vì hoàn cảnh lịch sử và tình huống cụ thể có khác, nhưng trong cả hai trường
hợp của người xưa và người nay, đều rất dễ phát sinh dị nghị.
Có quan điểm khá phổ biến
cho rằng ông Minh tuyên bố đầu hàng đơn giản chỉ vì bị lâm vào cái thế hoàn
toàn thúc thủ, nhưng theo một số nhân chứng lịch sử lúc bấy giờ, tướng Dương
Văn Minh nhận lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với phe cách mạng
vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến
tranh vì lâu nay ông vốn chủ trương hoà bình, hòa giải hòa hợp dân tộc (xem
Chánh Trinh, Hồi ký không tên, NXB Thời Đại, 2012).
Một câu hỏi nữa cũng đáng
để đặt ra: Là một tướng lãnh cấp cao nhất trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa,
thông thường phải có khuynh hướng chủ chiến, nhưng tại sao Chính phủ do ông
Minh đứng đầu lại có vẻ hiền lành chủ hòa với thiện ý cao nhất?
Ngoài
những lý do đương nhiên về
chính trị, cũng như những đòi hỏi khách quan của lịch sử cùng nguyện vọng
hòa bình của dân tộc, theo tôi chắc hẳn còn
có một lý
do sâu xa tiềm ẩn quan trọng nữa có thể giải thích nguồn gốc thái độ và chủ
trương hòa bình-hòa giải hòa hợp dân tộc của Chính phủ Dương Văn Minh, từ đó đi
tới quyết định đầu hàng nhanh chóng. Đó là lý do tôn giáo: Tổng thống Dương Văn
Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đều theo Phật giáo, trong khi Phó tổng thống
Nguyễn Văn Huyền là người rất mộ Kitô giáo. Đạo Phật là đạo của hòa bình, từ bi
hỉ xả; Kitô giáo là đạo của lòng bác ái vị tha, lẽ tất nhiên các ông đứng đầu
này đều có khuynh hướng chung không muốn cho sinh linh phải bị tàn sát, trong
bất kỳ điều kiện nào còn có thể tránh được.
Họ
đều là những người nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, sống nghèo, chưa nghe có tai
tiếng gì về đời tư, thậm chí có người còn sống khổ hạnh, như ông Huyền cả đời
chỉ ở nhà cấp 4, không có xe hơi riêng, cuối đời chỉ chuyên lo việc tu hành.
Riêng bản thân ông Dương Văn Minh theo đạo Phật, nhân từ, thương người, sợ sát
sinh, sợ phải giết người. Thấy ai hoạn nạn thì ra tay can thiệp, cứu giúp, cả
đối với một số người thuộc chiến tuyến đối lập.
Cả ba vị đứng đầu Chính
phủ Dương Văn Minh đều đã hành động xuất phát từ lòng nhân đạo, đã kết hợp
nhuần nhuyễn nhau trong sự đồng thuận chấp nhận ưu tiên đường lối hòa giải hòa
hợp dân tộc và giải pháp đầu hàng trong buổi hoàng hôn của chế độ để tránh cho
thành phố Sài Gòn khỏi đổ nát và nhân dân vô tội cả nước khỏi phải chết thảm
thêm nữa vì việc đánh nhau giữa hai bên vào giờ chót. Nếu không có sự đồng
thuận giữa những con người cùng lý tưởng, được un đúc thấm nhuần bởi tinh thần
từ bi hỉ xả và vị tha của các bậc giáo chủ, thì thật khó đi đến một quyết định
mau lẹ, kịp thời và sáng suốt như vậy. Vì thế cho nên bây giờ bình tĩnh nhìn
lại, có người còn đánh giá cuộc đầu hàng lịch sử nêu trên chẳng những không
chút nhục nhã mà còn đáng ca ngợi là một hành vi anh hùng, đặc biệt hợp với lối
hành xử bi-trí-dũng của nhà Phật.
Một số người thân cận với
Dương Văn Minh (như các ông Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Thích
Trí Quang…) đều cho rằng ông không phải là người làm chính trị sắc bén, có bản
lĩnh[3],
có lẽ họ nói theo nghĩa phàm đã xông pha vào chính trị thì phải khéo linh hoạt
với rất nhiều thủ đoạn.
Theo cựu dân biểu Dương
Văn Ba, một người thân cận từng ở nhờ thời gian khá dài trong tư gia của tướng
Dương Văn Minh (số 3 đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần), cả trước và sau
30.4.1975, thì ông Minh là “loại người trầm lắng, suy tư dù gốc của ông là một
quân nhân. Triết lý của ông là triết lý trầm lắng của Phật giáo, ông không đua
chen, không sân si; ông thuộc vào loại thấy đủ biết đủ, thấy nhàn biết nhàn. Đó
là một loại triết lý pha lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo. Ông sống khá bình dị,
hòa mình với mọi người, đa số bạn bè bà con đều thương ông” (tldd., tr. 263).
Ông Ba còn cho biết tiếp:
“Gia đình ông Dương Văn Minh thuộc vào loại thanh bạch, không có dư dả nhiều.
Tài sản ông để lại trước khi ông đi Pháp là hàng ngàn chậu Hoa Lan, 3-4 con chó
bẹc giê, 5-7 cái máy chụp hình loại chuyên nghiệp và lũ khũ những đồ đạc, vật
dụng linh tinh không giá trị nhiều lắm của một vị tướng lãnh” (tr. 364).
Rõ
ràng, ông Dương Văn Minh đầu hàng “giặc” không phải để được vinh thân phì gia,
vì ai cũng biết, sau khi hoàn tất trách nhiệm trước lịch sử và lui khỏi chính
trường, ông đã sống cuộc đời ẩn dật nơi nước ngoài với con cái, không phát biểu
về chính trị, không viết hồi ký để kiếm tiền, chấp nhận cuộc sống nghèo bình
thường, từ chối mọi sự trợ cấp từ phía các chính phủ Pháp, Mỹ mà ông đã có thời
gian từng phục vụ[4].
Ông không giống như một vài vị tướng khác, suốt ngày đeo cái lon tướng để được
tiếp tục nhận sự vinh danh cho tới chết mới thôi, mặc dù nhiệm vụ lịch sử đã
hoàn thành từ rất lâu.
Ngày
nay, xét diễn biến các sự kiện, đa số người ta đều thừa nhận việc đầu hàng của
Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các của ông chẳng những không nhục nhã mà
còn là hành động sáng suốt thức thời vụ. Điều này về sau đã được cố thủ tướng
Võ Văn Kiệt công khai thừa nhận trong một lần trả lời cuộc phỏng vấn liên quan
đến vấn đề đang xét của tuần báo Quốc Tế (Bộ Ngoại giao) nhân
dịp 30.4.2005. Có lần ông Kiệt chia sẻ với cựu dân biểu Lý Quý Chung: “Ông Minh
là một con người tốt và có lòng yêu nước…” (Hồi ký không tên, sđd., tr.
447).
Cho
nên, liên quan đến một chi tiết về thủ tục tiếp quản tại Dinh Độc Lập ngày
30.4.1975, khi ông Minh bảo rằng sáng nay đã có một tuyên bố trao quyền cho
Chính phủ Cách mạng Lâm thời rồi thì người cán bộ tiếp quản nói “Anh chẳng có
gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!”[5], tôi
cho câu nói vặn lại này là một câu hơi lố, rất dở, không thật sự cần thiết,
không xứng với tầm nghĩ việc lớn cũng như với thiện chí rất đáng được trân quý
của ông Dương Văn Minh.
Con
trai ông Dương Văn Minh, kỹ sư Dương Minh Đức, có lần được hỏi ý kiến nhận xét
sự kiện lịch sử ngày 30.4.1975, và về người cha của mình, đã phát biểu: “Tôi
rất yêu quý ba tôi…Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận
chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất
nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu
quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết. Chính vì
vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn
của một chế độ…. Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và
ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu “tử thủ” Sài Gòn. Tôi tin rằng
đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông “ yêu nước trước
hết là phải cứu dân” (theo tạp chí Hồn Việt, 1.6.2009).
Đúng
như vậy đó, khái niệm yêu nước rất rộng. Đánh giặc hăng say chỉ là một trong
những biểu hiện của tinh thần yêu nước khi đất nước bị xâm lăng mất độc lập,
nhưng đó chẳng qua cũng chỉ là hành động bất đắc dĩ chứ chẳng nên lúc nào cũng
cổ vũ thái quá, bởi lẽ đơn giản “phi nguy bất chiến” (lời trong Tôn Tử
binh pháp, không kẹt vào thế nguy thì đừng đánh). Trong mọi trường hợp khác
nhau, yêu nước không thể tách rời với thương dân/ cứu dân, mà thương dân/ cứu
dân trước hết là phải bảo vệ tối đa và bằng mọi cách sinh mạng của dân, rồi sau
đó mới tính tới chuyện để cho họ được hưởng đầy đủ các phúc lợi vật chất cũng
như các quyền về tự do dân chủ. Thà chịu “thua” ngay tức khắc mà bảo vệ được sinh
mạng của dân, sớm mang lại hòa bình cho dân tộc, còn danh dự hơn cố đánh trong
cái thế tất bại mà để cho dân, quân phải hi sinh xương máu quá nhiều. Mặt khác,
cho dù một bên có thắng mà nướng con dân trong lửa đỏ cũng không phải điều tốt.
Hiểu được như vậy ta sẽ thấy ông Dương Văn Minh là một người có đức kiên trì
tốt nhịn, có lòng nhân ái thiết tha, đã xử lý vấn đề hợp tình lý, đúng lúc đúng
thời theo cái nghĩa “quân tử kiến cơ nhi tác” (người quân tử biết nương theo
thời cơ mà hành động), “thức thời giả vi hào kiệt” (kẻ thức thời là hào kiệt),
và sẽ là không quá đáng nếu chúng ta hôm nay coi quyết định đầu hàng ngày
30.4.1975 của ông là một hành động anh hùng.
23.4.2018
[1] Đỗ Mậu tham gia đảo
chánh chỉ vì muốn loại trừ sự lộng hành của vợ chồng Ngô Đình Nhu, còn đối với
ông Diệm, Đỗ Mậu vẫn là người tâm phúc.
[2] Trong một bức thư
ông Minh gởi cho tướng Nguyễn Chánh Thi (người từng đảo chánh Ngô Đình Diệm năm
1960 nhưng thất bại) đề ngày 15.4.1987, có đoạn viết: “Theo tôi, tự tử không
phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu
quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu (cũng như nhiều người)
không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số
những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi
vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã
nhắn nhủ để cứu dân” (xem Trương Võ Anh Giang, Máu chảy về tim, NXB
Trẻ, 2016, tr. 311).
[4] Về cuộc sống đạm
bạc của ông Dương Văn Minh trong thời gian ẩn dật ở Pháp và ở Mỹ, cũng như
nhiều chi tiết khác liên quan cả cuộc đời ông, rất nhiều sách vở tài liệu đã
ghi chép. Có thể xem: Trương Võ Anh Giang, sđd., “Viết tiếp bài ‘Ông Dương Văn
Minh và tôi’”, NXB Trẻ, 2016, tr. 290-318.
Tác giả gởi cho viet-studies ngày
23-4-18
.
......./.