“Tau chưởi” - một bài thơ kinh dị và khốc liệt
Nam Đan
**************
nhà thơ Trần Vàng Sao |
Theo tiểu sử tôi tìm được trên mạng, nhà thơ Trần Vàng Sao tên
thật là Nguyễn Đính, sinh năm Tân Tỵ 1941, quê quán làng Đông Xuyên, huyện
Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế, sống từ thuở ấu thời đến nay tại phường Vỹ Dạ,
thành phố Huế. Năm 1962, ông đậu tú tài ở Huế và dạy học ở Truồi. Thời gian này
ông bắt đầu tham gia phong trào chống Mỹ ở Huế. Năm 1965 ông thoát ly lên rừng
chiến đấu. Năm 1970 ông bị thương, được đưa ra miền Bắc chữa bệnh an dưỡng.
Tháng 5 năm 1975, ông trở về Huế được phân công làm liên lạc (đưa thư) rồi công
tác ở ban Văn Hóa Thông Tin xã và nghỉ hưu năm 1984. Vào thời điểm này, bài
thơ “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình” của ông được
đăng trên Sông Hương, số kỷ niệm 5 năm ngày tạp chí ra đời.
Bài thơ lập tức gặp phản ứng dữ dội của một số chức sắc địa phương.
? hải ngoại, năm 1994, nhà xuất bản Tân Thư (California, Hoa Kỳ)
cũng cho in tập “Bài thơ của một người yêu nước mình” của ông.
Sáng nay tình cờ tôi đọc bài thơ “Tau chưởi” dưới
đây, và nghĩ rằng có lẽ trong văn học Việt Nam (và thế giới?!) khó tìm ra một
bài thơ nào kinh dị, khốc liệt như bài thơ này. Điều gì làm cho tâm hồn con
người – thi sĩ – phải đau đớn, quằn quại, căm hận, phẫn nộ đến vậy?
Tôi rất thú vị với lời bình của nhà báo Mặc Lâm (“Những bài thơ xé
lòng…”, RFA 01.12.2012) về bài thơ này:
“Trong văn học dân gian,
không hiếm những bài vè, lục bát dùng để chửi bới người mình ghét. Nhưng đối
với các nhà thơ vốn quen thuộc và trân trọng những con chữ thì việc chửi bới là
một điều phạm húy. Trần Vàng Sao chẳng những không sợ chữ nghĩa đau đớn mà ông
còn bóc trần, nạo hết nét vàng óng bên ngoài của chúng để phục vụ cho một bài
thơ mà ông cảm thấy hả hê. Ông dùng thơ để chửi cả một chế độ. Chửi từng sự việc,
từng con người. Cách chửi của bà nhà quê mất gà được ông “biên đạo” lại thành
của riêng, gây sốc lẫn gây cười cho người đọc bài thơ.
Có điều là cười xong thì
người ta lại chảy nước mắt...”
Tôi chỉ xin góp thêm vài ý.
Bài thơ “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình” làm
cho Trần Vàng Sao nổi tiếng, nhưng theo tôi, bài “Tau chưởi” mới
là bài đáng kể nhất trong thơ của ông.
Về ngôn từ, ông lật đổ quan niệm “duy mỹ trong ngôn ngữ” lâu nay
trong thơ Việt, nhưng điều khác biệt là ông không sử dụng đến những từ tục tĩu
như nhiều nhà thơ đương thời đang dùng. Ông ác miệng, cực kỳ ác miệng, nhưng
không tục tĩu.
Chửi là 1 trong 2 hành vi của kẻ yếu, của người thấp cổ bé miệng
mà có chữ (nhà văn, nhà thơ chẳng hạn), nhưng không có cách gì để tự vệ, để
phản ứng trước kẻ mạnh. Họ không thể phản ứng bằng hành động, bằng bạo lực, nên
họ chọn cách phát ngôn bằng lời nói hay chữ viết. Hành vi còn lại sau chửi là
đặt ra, viết ra những chuyện tiếu lâm đen mà chúng ta thường đọc, hay nghe kể.
Tôi chưa từng gặp Trần Vàng Sao, nhưng tôi mơ hồ nghĩ rằng với cái tâm tính bộc
trực và tâm hồn mẫn cảm của mình, ông chỉ có thể bày tỏ cảm xúc bằng cách chửi
thẳng chứ không thể dùng ẩn dụ né tránh, hay nói kiểu móc họng, sâu xa, thâm
thúy như nhiều người khác.
Điển hình là bài thơ “Tau chưởi” này. Bài thơ nói thẳng, nói
thật cảm xúc và suy nghĩ của một con người bị vùi dập, bị thể chế Cộng Sản đàn
áp thô bạo đến chỗ tàn tệ nhất.
Ban đầu, tôi suýt hiểu nhầm rằng bài thơ như phát ngôn của một
con người vì quá đau đớn, quá phẫn nộ mà đứng ở chỗ mấp mé sự điên loạn, nhưng
khi tôi đọc kỹ lại thì thấy không phải vậy. Bài thơ có một cấu trúc chặt chẽ,
diễn đạt một tiến trình tâm lý rất lớp lang.
Từ dòng đầu của bài thơ, ông chưa chửi, mà ông nói. Ông bình
tĩnh nói thiệt hơn về nỗi ấm ức vì phải câm nín trước sự tàn độc, bất công và
dối trá cho tới khi chịu không nổi nữa:
... tau phải câm miệng
hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không...
Từ đó, sự phẫn nộ kết tụ rồi bùng vỡ dữ dội thành tiếng gào
thét. Ông quyết định phải chửi, nhưng không chửi vòng vo, vông khống, ông chửi
thẳng. Không chỉ chửi thẳng, ông còn kêu đối tượng, thậm chí cả dòng họ thân
tộc của chúng ra để nghe ông chửi. Không chỉ chửi, ông vừa chửi vừa kể tội
chúng, và sau cùng, ông nguyền rủa, những lời nguyền rủa vô cùng độc địa.
Tôi tự hỏi, với một cảm xúc khốc liệt như thế, trong thơ, thì
cái thiện ở đâu, cái đẹp ở đâu? Tính nhân văn ở đâu? Lương tri con người ở đâu?
Phải chăng khi đặt những tiêu chí có vẻ cao đẹp đó ra cho thơ –
cho thi ca – của một tâm hồn bị tổn thương đến tận cùng như Trần Vàng Sao thì
chúng ta đang bắt đầu cho một sự dối trá khác?
Nam Đan
thơ Trần Vàng Sao
TAU CHƯỞI
tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
tau cũng có chân có tay
tau cũng có đầu có óc
có miệng có mắt
có ông bà
có cha mẹ
có vợ con có ngày sinh
tháng đẻ
có bàn thờ tổ tiên một
tháng hai lần
rằm mồng một hương khói
bông ba hoa quả
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối
Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt
bây
không bóng không gió
không chó không mèo
mười hai nhánh họ bây đem
lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp
hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh
khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội
ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì
con cháu thân hơi cật
ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ
lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây
sập nắp
tau chưởi cho bây có chết
chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con
cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng
cho bây
bây ỉ thế ỉ thần
cậy nhà cao cửa rộng
cậy tiền rương bạc đống
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng
cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm
không dao
đang sống bây giả đò chết
người chết bây dựng đứng
cho sống
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh
ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại
kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi
bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa
mỏ đả đảo muôn năm
lúc như thầy tu vào hạ
lúc như con nít đói bụng
đòi ăn
hai con mắt bây đứng
tròng
bây bắt hết mọi người
trước khi chết phải hô
cha mẹ bây ông nội ông
ngoại bây tiên sư cố tổ bây
sống dai đời đời kiếp
kiếp
phải quỳ gối cúi đầu
nghe bây nói không được
cãi
phải suốt đời làm người
có tội
vạn đợi đội ơn bây
đứa nào không nghe bây
hớt mỏ chôn sống
thằng nào không sợ bây
vằm mặt thủ tiêu
bây làm cho mọi người
tránh nhau
bây làm cho mọi người
thấy nhau nhổ nước miếng
đồ phản động
đồ chống đối
đồ không đá bàn thờ tổ
tiên
đồ không biết đốt chùa
thiêu Phật
thượng tổ cô bà bây
mụ cô tam đợi mười đời
bây
tau xanh xương mét máu
thân tàn ma dại
rách như cái xơ mướp chùi
trách nồi không sạch
mả ông bà cố tổ bây kết
hết à
tụi bây thằng nào cũng
híp mắt hai cằm
bây ăn chi mà ăn đoản hậu
ăn quá dã man
bây ăn tươi nuốt sống
mà miệng không dính máu
người chết bây cũng không
chừa
năm năm mười năm hai mươi
năm
xương chân xương tay sọ
dừa vải liệm`
bây nhai bây khới bây mút
cả húp cả chan bây còn
kêu van xót ruột
bao nhiêu người chết diều
tha quạ rứt xương
khô cốt tàn dọc bờ dọc
bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ
dựng tượng dựng đài cho
cha mẹ cố tổ bây
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi
mây về gió
trong am trong miếu giữa
chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt
bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết
tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau
chưởi
chập choạng chạng vạng
tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau
chưởi
bây có là thiền thừ mười
tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa
chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc
ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan
hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện
hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây
có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa
ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây
có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô
hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần
mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây
đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què
sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống
cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc
dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết
hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
TRẦN VÀNG SAO, 29 tháng 6
năm 1997
............/.