Thủ bút của Trần Trọng Kim
gửi Hoàng Xuân Hãn năm
1947
****
Nguyễn
Đức Toàn
Viện
nghiên cứu Hán Nôm
http://yeuhannom.blogspot.com.au/2013/06/thu-but-cua-tran-trong-kim-thu-gui.html
****
Trần Trọng Kim
(1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong
giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu
có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên
cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc
địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi
đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm
tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc
từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay
cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa
dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện. Đối
chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất
bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng
văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều
là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện,
giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện,
giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.
Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một
phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một
nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong
một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của
nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm
túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.
Bức thư gồm 2 tờ viết 2
mặt.
Nội dung như sau :
Sài Gòn, ngày 8
tháng 5, năm 19471
Ông Hãn2
Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa
cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là
đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ,
gửi sang để Ngài4 xem.
Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái
cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như
ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng
chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết
thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì
Ngài và tôi ở bên ấy5, hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông
Cousseau6 do ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài
và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về
tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt
ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta
cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã
cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng
hai tây9, không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy
cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ
nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét
ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu
tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11,
họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng
không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp
làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không
chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được
việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi,
tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có
nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là
đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để
bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ
ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại
cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù sao, tôi cũng không
ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì
cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không
làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm
trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn về phương diện người
mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu
vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở
cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành
nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13,
Hoè14 và Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết
nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến
ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình
xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm
nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc
ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải
xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm
của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17, họ [tr2] có
đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì
cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói :
Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có
nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên
chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật
là:
身 在 南 蕃 無 所 預
心 懐 百 憂 復 千 慮
(Thân tại Nam phiên
vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục
thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không
tham dự việc chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo
lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi vẫn biết việc chống
với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa
cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ
phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta
cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối
đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều
người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái
chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái
địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái
thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập
thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được,
nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với
viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng 功 之 首 罪 之 魁(Công chi thủ tội chi khôi =
Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông
nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi tôi ở Hương- cảng,
ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi
thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
Đất khách mơ - màng những thở - than,
Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông Oánh sinh thời là một
người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp
mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một
cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi muôn nhờ ông một tí
việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19gửi
ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn,
thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì
tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm,
nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà
đã bị đốt21 đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào
trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho
tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa
được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền
và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa,
vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22
Ông có biết tin ông Bùi
Kỷ23 bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về
đường nhà ông Bảng cả.
Nhà tôi và Chương24 đều
có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và
tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết
được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau này ông có gửi thư
cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì
hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.
Nay kính thư
Trần Trọng Kim [tr4]
||||||||||||||||||||||||||||||||
Chú thích :
1.
8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là
Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier
Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.
2.
Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính
quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở
Hà Nội.
3.
Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng
có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm
1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam .
4.
Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền
cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng.
(Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)
5.
Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại
thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra
ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại
đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần
về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang
Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.
6.
Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc
nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người
Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)
7.
D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho
Bollaert sang thay. (sđd)
8.
Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...
9.
hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một
cơn gió bụi có ghi : “ngày
5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”
10.
ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng
Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc
kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn
Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)
11.
Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn
sách “Việt Nam văn
phạm”.
12.
Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo
Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn
của người Pháp.
13.
Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là
một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động
cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng
bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam.
Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà
bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ
viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.
14.
Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại.
Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở
lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi
thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc
đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước
khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng
(8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)
15.
Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc
Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng
Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để
tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8
bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam ,
là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập,
ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)
16.
Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng
một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh
là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội,
Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn
có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các
nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên
đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân
viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo
ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại.
Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.
17.
Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
18.
ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn
Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của
chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu
học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc
Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ
: Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.
19.
Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần
Văn Giáp, sđd)
20.
Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn
Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một
cơn gió bụi,Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)
21.
“Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị
quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất
quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ
gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt
Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”.
Trần Trọng Kim, sđd.
22. Tác giả tự đánh dấu,
và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi.
23.
Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục
của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện
Thuý Kiều, Việt Nam văn
phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội
Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24.
Chương: Tên người, lúc đầu tôi chỉ tra cứu được 1 người tên Chương là Luật sư
Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức
Bộ trưởng bộ Ngoại giao. Đến hôm 9.2.2014, bài viết nhận được phản hồi từ bà Phạm
Thị Lệ Hương, 1 Việt kiều Mỹ cung cấp thông tin sửa sai cho, tên Chương là tên con gái cụ Trần Trọng Kim, tức
bà "Trần Thị Diệu Chương, vì trong thư Cụ Kim thường
kêu các Cụ ngang tuổi là Ông… mà không nói
tên trống không như thế này, vả lại Cụ viết “nhà tôi [tức
là vợ của Cụ] và Chương đều
có lời chúc ông bà…” thì
chắc chắn phải là người trong gia đình Cụ. Con gái độc nhất của cụ tên là Trần
Thị Diệu Chương, vẫn còn sống ở Pháp, năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi 1 chút (ngang tuổi ông
Bùi Diễm là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần
Diệu Chương, vì Cụ Bùi Kỷ
là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim).] Sở dĩ tôi dám quả quyết như thế này là vì
tôi là người trong họ của Cụ bà Trần Trọng Kim, nên tôi đọc thư của Cụ Kim
viết cho Cụ Hoàng Xuân Hãn tôi hiểu như thế. Tôi có hỏi thêm những người trong
họ thì mấy nguời đó cũng nghĩ như tôi viết cho anh ở trên."
(trích thư phản hồi của bà Phạm). Tôi xin sửa lại chú thích này theo
ý kiến phản hồi của bà Phạm và xin trân trọng cám ơn bà.
Thư mục tham khảo
1.Lệ thần - Trần Trọng
Kim, Một cơn gió bụi, Nxb
Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc
Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn
Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam .
S,.1982
4. Trần
Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II.
H.,1987
5. La
Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998 (2t)
Phụ lục ảnh nguyên văn
.........../.