Bài học lịch sử “TIN BỢM MẤT BÒ”
Hoàng Tuấn Phổ
http://tuancongthuphong.blogspot.com/2014/07/bai-hoc-lich-su-tin-bom-mat-bo.html
Tượng Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh Ảnh: Internet |
Truyền thống Việt – Miên- Lào- Xiêm tình nghĩa
láng giềng giáp mái kề hồi, sớm khuya tắt lửa tối đèn có nhau. Vua Gia Long,
trước khi mất, căn dặn Hoàng Thái tử (Tức Minh Mạng): “Không được gây hấn
ngoài biên”. (Đại Nam Thực lục). Năm 1823, Diến
Điện sau mấy lần xâm lược Xiêm, bị nhà Nguyễn giúp Xiêm đánh thua, xin lập đồng
minh Việt- Diến chống Xiêm, Minh Mạng từ chối.
Nhà vua nói với triều thần: “Không nên bỏ
tình hòa hiếu mà tìm sự cừu thù”. (Đại Nam thực lục). Dĩ
nhiên, “Bát đũa còn có khi xô” quan hệ Việt – Xiêm không tránh khỏi có
lúc bị sứt mẻ. Bản tính các vua Xiêm hay cậy mạnh, nhiều tham vọng, muốn thôn
tính Miên (Căm puchia), thừa thắng xâm chiếm luôn vùng đất Gia Định (Nam bộ),
để Lào hết chỗ dựa, dễ bề đô hộ. Ví dụ, năm 1833, quân Xiêm đánh chiếm các tỉnh
Hà Tiên, Châu Đốc, tấn công cả miền đất phía tây Quảng Trị và xâm phạm biên
giới Nghệ An, uy hiếp kinh đô Huế, khiến triều Nguyễn hết sức lo lắng. Phải mất
mấy năm vất vả, quân Nguyễn mới đuổi được quân Xiêm ra ngoài bờ cõi, giữ gìn
bình yên ba nước anh em Việt – Miên – Lào. Đối với Xiêm, sau chiến
tranh xâm lược, triều đình Nguyễn vẫn sẵn sàng bỏ qua lầm lỗi, lại quan hệ hoà
hiếu với Xiêm.
Ngược dòng lịch sử, chính Nguyễn Ánh (sau là
vua Gia Long), ông chúa cuối cùng của vương triều Nguyễn, bị quân Tây Sơn chiếm
mất Gia Định, dồn đến chân tường, vẫn không dám quyết định cầu viện vua Xiêm vì
không tin lắm người bạn láng giềng đầy tham vọng. Tuy nhiên, một sự kiện bất
ngờ xảy ra đã đưa đẩy ông vào vòng xoáy lịch sử. Nguyên do, tướng Châu Văn Tiếp
của Nguyễn Ánh bị thua trận, chạy thẳng sang Vọng Các (Băng Cốc) cầu cứu vua
Xiêm. Vua Xiêm sai hai người cháu, tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn
quân đánh Gia Định mượn tiếng giúp Nguyễn Ánh để trả thù Tây Sơn vốn đã gây cho
Xiêm mối bất bình từ trước. Hai tướng Xiêm thả cho quân sĩ cướp bóc, hãm hiếp
dân lành, bị quân Tây Sơn đánh thua tan tác. Nguyễn Ánh thất vọng, tập hợp bề
tôi của mình rút về đảo Thổ Chu. Theo lời đức cha Bá Đa Lộc (tức Pigneau) kể
trong thư đề ngày 20 tháng 3 năn 1785: Nguyễn Ánh than rằng người Xiêm
lừa gạt ông, mượn cớ lập lại quyền bính cho ông mà cướp bóc dân chúng và bắt
sống ông thôi! (Tạ Chí Đại Trường:Lịch sử nội chiến 1771- 1802-
NXB Công an nhân dân, tr.143).
Dẫu sao, sai lầm của của Châu Văn Tiếp dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng, Nguyễn Ánh là chủ soái vẫn phải chịu trách nhiệm.
Mạc thị gia phả, tập sử liệu của người đương thời sống trong cuộc (Vũ Thế Dinh )
chép rõ: “Chiêu tăng và Chiêu Sương thả quân cướp bóc tàn hại dân chúng. Vua
(tức Nguyễn Ánh) ngăn cản không được, nhỏ nước mắt than: “Việc phục quốc cốt
là lo cho nước cho dân, thế mà nay để cho bọn ấy thả sức làm điều bạo ngược,
làm quốc chủ như ta làm gì, kẻo rồi giặc nguỵ (tức Tây Sơn-HTP) lại vin vào cớ
đó vu cho ta rước giặc về tàn hại nhân dân. Ta không nỡ nhìn thấy cảnh đó!” Chư tướng
xin từ nay không để mặc cho bọn chúng hoành hành tàn bạo nữa” (Mạc thị
gia phả-NXB Thế giới). Sau đó, nhiều lần vua Xiêm muốn gửi quân sang giúp,
Nguyễn Ánh đều không nhận. Chẳng hạn: Tháng 9 năm Quý Sửu (1793) vua Xiêm sai đại
tướng Chất Trì đóng quân 5 vạn ở Nam Vang (Nông Pênh) gửi 500 chiến thuyền đậu
biển Hà Tiên, đua thử hẹn giúp Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn nhưng ông từ chối khéo.
Nguyễn Ánh nói với tướng sĩ: “Mượn người ngoài giúp, đưa họ vào trong
nước mình, sợ di mối hại về sau”. (Đại Nam thực lực chính
biên).
Nhưng, ở đời “không cái dại nào giống cái dại
nào” ! Nguyễn Ánh thoát bàn tay vua Xiêm, lại rơi vào cạm bẫy Bá Đa Lộc!
Không biết đã có bao nhiêu độc giả hiểu lầm,
bởi một giáo sư nổi tiếng hàng đầu ngành sử học, dùng ngòi bút đanh thép của
mình kết tội các vua Nguyễn (trong đó có Gia Long Nguyễn Ánh) “bành
trướng, xâm lược” và“chính sách xâm lược tai hại của triều đình nhà
Nguyễn càng làm cho cuộc khủng hoảng trong nước thêm sâu sắc”. Ông
tâng bốc Xiêm hết lời và mạt sát Nguyễn cũng cạn lời! (Trần Văn Giàu:Sự
khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn… - NXB Văn
hoá, tr.100- 119). Sự thật, từ thời các chúa Nguyễn, hai nước Miên, Lào đã nhờ
Nam hà “bảo hộ” để chống lại sự bành trướng của Xiêm. Và các
chúa Nguyễn rồi tiếp theo là các vua Nguyễn đều hết lòng với Miên, Lào trong
việc “bảo hộ”, vì “bảo hộ” bạn cũng tức là bảo vệ mình. “Bảo hộ” là gì ? Theo
quan niệm các vua chúa nhà Nguyễn “bảo hộ” là giúp đỡ, bảo vệ, khác với “đô hộ”
là thống trị, xem nước người ta như thuộc quốc, thuộc địa của nước mình. Chính
sách bảo hộ của nhà Nguyễn khá minh bạch. Gia Long bảo triều thần: “Bảo
hộ là cốt giữ cho nước ấy được còn, chứ không phải để giám sát, cai trị nước
ấy. Vậy nên hạ lệnh cho bọn Thuỵ (Viên quan phụ trách bảo hộ Cao Miên) chớ
nên can dự vào chính sự nước ấy, để cho phiên vương (vua nước nhỏ ở
bên cạnh nước lớn) được tự làm việc thì lòng dân sẽ yên”. Một
số triều thần muốn giải quyết dứt điểm vấn đề Cao Miên để đối phó dứt khoát với
Xiêm, Gia Long nói: “Được một nước Chân Lạp (Cao Miên,
Campuchia) để sự lo về sau, trẫm quyết không làm như thế” (Đại Nam thục
lục). Đó là quan điểm đúng đắn mang tầm chính trị sáng suốt, sâu
xa của ông vua giỏi.
Người ta hay nhắc đến hiệu ước Versailles như
một chứng cớ không thể chối cãi để kết tội Nguyễn Ánh “cắt đất xin ngoại viện”,
“rước voi dày mả tổ”…! Giáo sư Phan Huy Lê đầu ngành sử học Việt Nam, kết
luận Hội thảo khoa học, cho rằng đó là “tì vết”
của Gia Long Nguyễn Ánh. Ý kiến ông chỉ là cách nói khác của một quan điểm xưa
cũ. (Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn…” 18-19/10/2008-
NXB Thế giới ấn hành 2008)
Vậy thực chất hiệu ước Versailles là gì?
Trước khi Châu Văn Tiếp bại trận, tự ý
cầu cứu vua Xiêm, thời gian khoảng một năm, Nguyễn Ánh đã nghe theo lời bàn của
Bá Đa Lộc quyết định việc cầu viện phương tây. Bá Đa Lộc là ai ? Bá Đa Lộc, một
nhà truyền giáo (đạo Thiên Chúa) nổi tiếng Nam hà bấy giờ. Thông
thường, người ta gọi ông là đức cha cả, được triều Nguyễn phong tước Bi Nhu
quận công. Ông còn các tên Pháp: (Giám mục) D’Adran, (đức ông) Pigneau, Pierre
Yoseph, Georges, Pingeau de Béhaine… Công việc truyền giáo gặp khó khăn tại Nam
hà vì nội chiến Tây Sơn- Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc đang phải bôn ba ở Nam Vang được
Mạc Thiên Tứ trấn thủ Hà Tiên thời chúa Nguyễn đưa đến gặp Nguyễn Ánh tại đảo
Thổ Chu. Chính ở đây, đức cha cả, năm 1784, hứa giúp ông chúa mất nước cầu viện
Đại Tây.
Nhiều giáo sĩ nước ngoài có mặt ở Việt Nam bấy
giờ, qua các thư từ, giấy tờ đều ghi nhận: Không riêng Nguyễn Ánh mà cả Tây Sơn
(Nguyễn Nhạc hay Nguyễn Huệ?) và chúa Trịnh đều muốn họ xin Tây dương giúp cho
tàu to súng lớn, binh lính thiện nghệ để nhanh chóng tiêu diệt đối phương. Cả
ba ông chúa nước Nam đều được các giáo sĩ đặt lên bàn cân, và cán cân nghiêng
về Gia Định vì Nguyễn Ánh có vẻ đáng tin hơn, trong khi Bình Định cũng như
Thăng Long đều đối xử tồi tệ với nhà thờ, thô bạo với cha cố.
Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh đi cầu viện từ
cuối năm 1784 đến năm 1787 (ba năm sau mới đến nước Pháp). Nghĩa là Bá Đa Lộc
bế Hoàng tử Cảnh cùng đoàn tuỳ tùng đang lênh đênh trên Ấn Độ dương, hai vạn
quân Xiêm của Chiêu Tăng, Chiêu Sương vẫn còn đóng ở bên kia biên giới nước
Việt. Bá Đa Lộc đến Pháp đầu năm 1787, phải chờ 10 tháng sau, ngày 28/11 Hiệp
ước mới được ký kết, một bên là đại diện của Louis XVI, một bên Bá Đa Lộc được
Nguyễn vương (Nguyễn Ánh) ủy nhiệm với tờ giấy viết từ năm, sáu năm trước !
Không có quốc thư (đáng lẽ nhất thiết phải có mới có giá trị pháp lý) chỉ có
một “tín vật” làm tin, ấy là chú bé được mang tên Hoàng tử Cảnh, lúc ra đi tuổi
lên 3, bây giờ lên 7. Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu, 1.200 bộ binh, 200
pháo binh, 250 lính Phi để đổi lấy cửa biển Hội An, sau thêm đảo Côn Lôn (Côn
Đảo). Pháp được toàn quyền và độc quyền thương mại ở Nam hà (Văn Tân: Cách
mạng Tây Sơn-NXB Văn sử địa-Hà Nội, 1958 và tài liệu khác)...
Nhưng Hiệp ước Versailles không thành, mà
giống như một trò đùa ! Nhiều năm sau ký Hiệp ước, người Pháp còn chép miệng
tiếc của vì đã bỏ mất món hàng béo bở ! Họ không biết chính bởi món hàng Hiệp
ước Versailles quá hời, hời tới mức không thể tin. Toàn quyền De Conway được
giao trách nhiệm thi hành Hiệp ước, vốn tính đa nghi càng thêm hoài nghi. Ông
đã phái nhiều đoàn đến Nam hà (miền Nam) thám thính, tìm hiểu các cửa biển, các
đảo lớn nhỏ và thực lực Nguyễn Ánh...Hẳn là tên cáo già bản tính hồ nghi này đã
đánh hơi thấy nhượng địa quan trọng: Cửa biển Hội An dang thuộc quyền
quản lý của Tây Sơn hùng mạnh, còn Côn Lôn chỉ là hoang đảo vô dụng giữa trùng
khơi mịt mùng sóng gió, nơi ẩn náu của lũ cướp biển !
Tờ báo Gazette nationale ngày
14/6/1789 xuất bản tại Pondichery viết:“Không bao giờ tình hình dễ dàng cho
việc lập lại quyền bính cho ông vua mất ngôi đã trở về chiếm 5 tỉnh phía Nam
như bây giờ !” Đó là một nhận xét đầy mỉa mai được báo Gazette
nationale phản ánh sự tiên đoán tương lai đen tối của Nguyễn Ánh
dưới con mắt người Pháp. (Thời điểm này, Nguyễn Ánh bằng thực lực của mình chỉ
mới chiếm lại được vùng đất Gia Định-Nam Bộ. Trong khi Tây Sơn hùng mạnh đang
cai quản cả đất nước. Và sau khi đập tan 20 vạn quân Thanh, củng cố quyền lực,
nếu Quang Trung không đột ngột qua đời, Nguyễn Ánh cũng khó bề có được vùng đất
đứng chân dù nhỏ bé trên đất liền, nói chi đến 5 tỉnh phía Nam). Hiệp ước
Versailles thất bại, De Conway coi là một trò đùa, Nguyễn Ánh cũng
xem như tờ giấy lộn. Nhưng Bá Đa Lộc không thể đi không lại về
không. Con đường truyền giáo của đức cha cả có thể phải chấm hết, nếu ông bị
mất hoàn toàn lòng tin đối với Nguyễn Ánh. Ông tất tả chạy ngược, chạy xuôi mới
quyên góp nổi tiền mua 1.000 khẩu súng trường, và mộ được 19 người gồm nhiều
thành phần xã hội khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ hám lợi, ham danh !
Chính Bá Đa Lộc đã dụ dỗ họ, đưa họ đến miền đất hứa, làm quan và làm giàu ! Họ
đến Gia Định tháng 7 năm 1789, thường ngày lo đánh chén hơn đánh giặc, và rốt
cuộc đánh bài chuồn sau mấy năm “làm ăn” không “phát tài” ! Theo số liệu của
các giáo sĩ bấy giờ đang ở Gia Định, trong quân đội của Nguyễn Ánh, đến năm
1800, người Tây cũng chỉ có khoảng hơn 40 người ! Như vậy, không có căn cứ, nếu
nói Nguyễn Ánh dựa vào lực lượng Tây dương để đánh bại Tây Sơn. Sự thực, trong
lúc Nguyễn Ánh đang lên thác xuống ghềnh ở Nam bộ, “con voi” Louis XVI đã già
nua, lại đang sa lầy tại chính nước Pháp, Nguyễn Ánh làm sao “rước” nổi nó sang
Nam Việt ?
Nguyên nhân thất bại của chính quyền Tây Sơn
nằm trong nội bộ triều đình Nhà Tây Sơn. Năm 1792, vua Quang Trung mất, chỉ 10
năm sau, 1802, mấy anh em Quang Toản cùng tướng soái thân cận phải chịu trói ở
nơi còn âm vang tiếng thét oai hùng của Nguyễn Huệ, làm vỡ mật 20 vạn quân
Thanh xâm lược ! Quang Toản là một hôn quân làm hỏng sự nghiệp vĩ đại vua cha
để lại, nhưng mầm tai vạ gây nên họa loạn trong hoàng thất và triều đình văn võ
cũng do chính Quang Trung gieo trồng từ trước.
Khi nhà Tây Sơn sắp hết vai trò lịch sử, lịch
sử tất phải chọn ai đó, không người này thì người khác, đứng ra dọn dẹp cơ đồ
đổ nát để xây dựng trên nền tảng quốc gia nghìn năm văn vật một tòa lâu đài
mới. Lịch sử cũng có thể chọn lầm ai đó, nhưng với Nguyễn Ánh là nhân vật xứng
đáng nhất vì ông đã thành công nhất. Nếu chê Nguyễn Ánh, lịch sử sẽ chọn ai bấy
giờ ? Điểm mặt các anh hùng, hào kiệt xuất hiện trong lúc bão táp nội chiến nổi
lên khắp trong Nam ngoài Bắc, còn ai hơn Nguyễn Ánh hay bằng Nguyễn Ánh ? Thiết
tưởng hậu thế không nên quá khắt khe hay khó tính đòi hỏi những gì lịch sử
không thể có được, những gì Nguyễn Ánh không thể làm nổi. Hạn chế lịch sử từ
Quang Trung đến Gia Long là không dám cởi bỏ sớm chiếc long bào thêu rồng ố
vàng, cũ kỹ để thay bằng bộ “complet tân thời” mới toanh của văn minh tư sản !
Luẩn quẩn, tù túng trong cái lồng phong kiến đã trở nên quá chật hẹp, lạc hậu,
Gia Long phải hết sức cố gắng để trụ vững, tạo cơ sở cho Minh Mạng phát triển,
nhưng sang Thiệu Trị thì bắt đầu lung lay, và đến Tự Đức hoàn toàn chịu bất lực
trước cơn giống tố phương Tây ập tới !
Vua Tự Đức giao cho triều thần Phan Thanh Giản
cắt đất giảng hòa. Nhưng đế quốc Pháp đang thèm khát thuộc địa, đâu đã no mồi
sau khi nuốt trôi Sài Gòn, Gia Định ? Việt Nam mất, Campuchia, Lào cũng mất !
Triều đình Huế, phe chủ hòa do nhà vua đứng đầu đã quên bài học “Tin bợm mất
bò” mà tổ phụ Nguyễn Ánh-Gia Long phải trả bằng xương máu ! Không thể nói như
GS Phan Huy Lê đó là “tỳ vết” (vết xấu, vết nhơ), mặc dù sự thật thế nào,
Nguyễn Ánh cũng phải chịu trách nhiệm tất cả. Rất may, Hiệp ước Versailles chỉ
là “một trò đùa”, “tờ giấy lộn”. Nhưng nếu nó được thi hành nghiêm túc thì sao
? Hậu quả sẽ khó lường ! Và có thể, Nguyễn Ánh sẽ mang tội với dân tộc đã “đổi
đất lấy nước”. Tội này thuộc về tự Đức và phe chủ hòatriều đình Huế
“cắt đất giảng hòa” để cuối cùng mất tất cả đất và nước !
Bài học Nguyễn Ánh phải trả giá rất đắt đã
trao đứa con trai đầu lòng mới lên ba-Hoàng tử Cảnh-cho hồ ly Bá Đa Lộc. Đức
cha cả khoác áo thầy tu, núp dưới danh nghĩa nhà truyền giáo, thực chất là một
điệp viên lợi hại. Với Bá Đa Lộc và nhiều cha cố khác, truyền giáo gắn liền với
xâm lược. Sau Hiệp ước Versailles, Nguyễn Ánh tiếp tục giao phó con trai sẽ kế
nghiệp nhà Nguyễn cho Bá Đa Lộc dạy dỗ, kèm cặp. Ngày giỗ gia tiên, Hoàng tử
Cảnh không chịu vái lậy ông bà, Nguyễn vương hỏi đức cha cả tại sao thầy dạy
học trò quên ông bà ? Bá Đa Lộc ngang nhiên trả lời: Thờ cúng ông bà,
tin ông bà phù hộ con cháu sống lâu, giàu có là mê tín dị đoan ! Nguyễn
Ánh bất bình bảo Bá Đa Lộc: Lễ bái là để chứng tỏ con cháu nhớ ơn tổ
tiên, ông bà, để đền đáp công ơn ấy, tôi nhất quyết phải giữ đạo ông bà, vì đó
là một trong những giáo dục căn bản của xứ tôi. (Tạ Chí Đại Trường-Tài
liệu đã dẫn) Nguyễn Ánh bắt đầu nhận ra âm mưu thâm hiểm của Bá Đa Lộc. Ông đặc
cử một số nho thần dạy bảo Hoàng tử Cảnh theo lề lối giáo dục truyền thống dân
tộc. Bấy giờ ở Nam hà, thế lực giáo sĩ phương Tây rất mạnh, nhưng họ đều phải
im lặng trước thái độ cứng rắn của Nguyễn Ánh, kiên quyết xây dựng một quốc gia
thống nhất mọi mặt trên cơ sở truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Rất may cho dân tộc Việt Nam, người kế nghiệp
Gia Long không phải Hoàng tử Cảnh mà là Minh Mạng, một vua sáng của triều
Nguyễn.
Đọc lại sử cũ, chúng ta thấy “Tin bợm, mất bò”
là bài học luôn luôn đúng với mọi thời đại. Thời xưa, An Dương vương vì quá
“tin” cái nghĩa thông gia thân thiết của bợm Triệu Đà mà mất
cả nước, cha con đều rơi vào kết cục bi thảm ! Thời nay, có phải chúng ta lại
quá “tin” cái tình anh em đồng chí của Trung Quốc, để mất
Hoàng Sa, rồi mười bốn năm sau, mất thêm ba đảo Trường Sa, và bây giờ...???
Dân gian đã nói: “Tin bợm mất bò”. Dân
gian lại có câu: “Mất bò mới lo làm chuồng” !
[...]
HTP-15/7/2014
........./.