https://www.facebook.com/phuyen.nguyen.311/posts/176763236016071
ĐI TÙ CHỈ VÌ YÊU “NHẠC VÀNG”
Dĩ nhiên chuyện xảy ra đã lâu và chỉ có ở miền
Bắc. Một vụ án văn nghệ khiến ta phải rơi nước mắt, tiếp sau vụ Nhân Văn - Giai
Phẩm. Ngày 27-3-1968 nhóm nhạc của ông Lộc Vàng ở Hà Nội bị bắt.
Vụ án “Phan Thắng Toán và đồng bọn về tội
tuyên truyền văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc” đưa ra xét xử vào tháng
1-1971. Các bị cáo của vụ án bị cáo buộc đã tụ tập “thành một ban nhạc nghiệp
dư tụ tập chơi nhạc vàng. Khi đi biểu diễn nhạc kiếm tiền ở những đám cưới, các
cuộc liên hoan, chúng tìm cách đánh xen kẽ những bản nhạc vàng để truyền bá và
thăm dò thị hiếu của lứa tuổi thanh niên. Chúng phân chia nhau đi tìm mua đĩa
hát loại nhạc vàng lọt vào được, đi sưu tầm các bài hát và nhạc vàng cổ, ghi
chép các bản nhạc giật, nhạc tâm lý chiến của đài Mỹ và đài Sài Gòn. Chúng dùng
các bản nhạc này để luyện cho nhau những giọng hát, tiếng đàn thật là bi quan,
sầu thảm, lả lướt, lãng mạn để đi truyền bá, lôi kéo thanh niên… Phiên tòa đã
diễn ra 3 ngày để xét xử bọn “gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tự trị an,
phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách văn
hóa, chính sách lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự, xâm phạm nghiêm
trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều
người và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ XHCN trong lúc cả nước đang chiến
đấu chống Mỹ xâm lược…” (trích bài báo “Phan Thắng Toán và đồng bọn đã bị xét
xử”, báo Hà Nội Mới, ngày 12-1-1971).
Kết quả vụ xét xử, ông Phan Thắng Toán bị
tuyên án 15 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân, ông Nguyễn Văn
Ðắc bị 12 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân, ông Nguyễn Văn Lộc (Lộc
Vàng) bị 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân.
Dưới đây xin trích vài câu hỏi và đáp của tòa
với các “bị cáo” do nhạc sĩ Tô Hải, người đã tham dự phiên tòa năm đó, thuật
lại:
Chánh án: - Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi trụy không?
Toán xồm: - Dạ! Thưa quý tòa, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hòa Dân Chủ Ðức thôi ạ!
Chánh án: - Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?
Toán xồm: - Dạ! Paloma là của nước bạn Cuba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sĩ biểu diễn ạ!
Chánh án: - Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?
Toán xồm: - Dạ! Có ạ! Ðây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cuba ạ!
Chánh án: - Thế còn Tango Bleu chắc anh cũng đổ cho Cuba hết hả?
Toán xồm: - Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ácgiăngtin nhưng đã được quốc tế hóa. Vừa rồi Ðoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều sử dụng cả ạ!
Chánh án: - Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Ðừng có ngụy biện!
Toán xồm: - Ðánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!
Chánh án: - Anh hãy im miệng! Ðồ ngoan cố!
Và cứ như vậy, suốt phiên tòa chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Ðồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.
Chánh án: - Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi trụy không?
Toán xồm: - Dạ! Thưa quý tòa, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hòa Dân Chủ Ðức thôi ạ!
Chánh án: - Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?
Toán xồm: - Dạ! Paloma là của nước bạn Cuba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sĩ biểu diễn ạ!
Chánh án: - Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?
Toán xồm: - Dạ! Có ạ! Ðây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cuba ạ!
Chánh án: - Thế còn Tango Bleu chắc anh cũng đổ cho Cuba hết hả?
Toán xồm: - Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ácgiăngtin nhưng đã được quốc tế hóa. Vừa rồi Ðoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều sử dụng cả ạ!
Chánh án: - Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Ðừng có ngụy biện!
Toán xồm: - Ðánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!
Chánh án: - Anh hãy im miệng! Ðồ ngoan cố!
Và cứ như vậy, suốt phiên tòa chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Ðồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.
Ông Lộc Vàng kể: “Chúng tôi gặp gỡ, hát với
nhau nghe thôi chứ cũng chẳng phản đối chính sách nhà nước gì cả. Chúng tôi chỉ
thấy dòng nhạc này hay quá, trữ tình và đầy tình người nên muốn lưu giữ lại và
đóng cửa hát cho nhau nghe. Người này đồn người kia. Công an bắt bọn tôi và nói
rằng vì chúng tôi thích những bài nhạc ấy nên chúng tôi phá hoại nền văn hóa
CNXH và tuyên tuyền văn hóa trụy lạc của chủ nghĩa đế quốc. Và họ đã xét xử bọn
tôi. Sau khi ra tù, nhà cửa anh Toán cũng tan nát, anh chán đời và tìm vui bên
men rượu. Anh lang thang trên đường phố sống vào tình thương của người qua lại.
Ðêm 30 tháng 4 năm 1994, người ta nhìn thấy anh Toán nằm gục chết, đói lả, cô
đơn trên hè phố… Còn ông Nguyễn Văn Ðắc mất năm 2005. Nghĩ đến cuộc đời của
mình sao mà cay đắng, chua chát quá. Mình có làm cái gì đâu, chỉ yêu thích âm
nhạc thôi mà bị tù đày. Sau khi dòng nhạc này được khôi phục, những bản nhạc
này được hát lên tivi. Khi nghe người ta hát mà mình ngồi ứa nước mắt ra”.
Ông Lộc Vàng tên thật là Nguyễn Văn Lộc, sinh
năm 1945, là một trong những người mê nhạc vàng nổi tiếng tại Hà Nội. Trước năm
1954, đâu đâu cũng nghe người ta hát nhạc vàng. Đó là những bài nhạc, theo ý
chính quyền đương thời, hàm ý màu vàng bệnh hoạn, bi quan, hoặc khêu gợi tình
dục và những khát vọng thấp hèn. Nhưng đó chính là dòng nhạc lãng mạn, cũng
được gọi là nhạc tiền chiến đã đi vào lịch sử. Cùng với phong trào bài trừ
“hoàng sắc âm nhạc” của Mao Trạch Ðông tại TQ, thời gian đó tại VN xuất hiện
nhiều bài báo chống lại những giai điệu được cho là ủy mị và thiếu tinh thần
đấu tranh cách mạng. (Hồi đó vì vẻ đẹp sang trọng và đáng quý nên người ta so
sánh nó quý như vàng, chứ không phải nhạc vàng hiểu theo nghĩa của chính
quyền). Dòng nhạc này ngấm vào ông Lộc từ khi nào không biết. Cũng vì trót yêu,
trót thèm được phiêu du cùng cảm xúc thật của mình mà bất chấp lệnh cấm, ông
Lộc cùng một nhóm bạn, trong đó có ông Phan Thắng Toán (Toán xồm) và Nguyễn Văn
Ðắc thường xuyên tụ họp tại nhà, cùng hát với nhau những bài hát của Văn Cao,
Ðoàn Chuẩn - Từ Linh, Ðặng Thế Phong… và sau 1975 của Ngô Thụy Miên, Từ Công
Phụng...
Về phần ông Nguyễn Văn Lộc, sau khi ra tù ông
cũng đã sống một cuộc đời bôn ba, nghèo khổ. Sau khi người vợ qua đời, năm 1990
ông Lộc mở quán cà phê nhạc, chỉ để có chỗ cho ông thỏa niềm đam mê, vì thế tài
sản của ông cứ dần “đội nón ra đi” để bù đắp vào sự thua lỗ của quán: “Lỗ nhiều
tôi bán nhà to mua nhà nhỏ, từ nội thành bay ra ngoại thành. Khi chưa mở quán
tôi có ngôi nhà 50 m2 ở phố Kim Mã, sau bốn năm tôi chỉ còn 50 m2 đất, ở tít
Cầu Diễn”.
Bây giờ, ông sống luôn ở quán. Bà vợ ông đã mất hơn 10 năm nay nhưng mỗi khi hát trên sân khấu ông lại khóc. “Tôi chỉ ước vợ tôi sống lại, ở bên cạnh tôi, nghe tôi hát. Ngày xưa, tôi đi hát vợ tôi bế thằng lớn theo sau. Mấy ông bạn bảo: Trời rét, để con ở nhà mang con theo làm gì? Vợ tôi trả lời: Em không đi nghe hát đâu mà để nếu chồng em có bị bắt lần nữa, em còn biết đường đi tiếp tế”. Bà ra đi để lại cho ông hai người con và một tình yêu chưa bao giờ nguôi ngoai: “Tôi biết cô ấy từ năm 17 tuổi, chơi thân với nhau, rồi yêu nhau sau đó. Ngoài 20 tuổi tôi phải vào tù, 31 tuổi ra tù, thiên hạ dị nghị, kinh sợ tôi hơn một gã tù lưu manh, chỉ có cô ấy không ngại, vẫn yêu, vẫn thương tôi”. Vì người mình yêu, bà bỏ nghề ca sĩ làm nghề bán đậu phụ ngoài vỉa hè. Suốt quãng đời bên nhau chưa một lần vợ Lộc Vàng trách cứ ông về tình yêu với dòng nhạc mang đến nhiều hệ lụy.
Ngày nay, góc quán nhỏ số 17A của nghệ sĩ Lộc Vàng với những mái lá và bàn tre nằm khiêm tốn trên con đường mới ven Hồ Tây vẫn vang lên tiếng hát. Tiếng hát mà ông đã đánh đổi cả cuộc đời mình để giữ gìn, nâng niu. Khách vào quán sẽ bắt gặp một bức ảnh một người mặc áo sơmi trắng ngồi châm thuốc cho một người hành khất. Người mặc áo sơmi trắng là ông Lộc và người hành khất không ai khác chính là ông Toán (ảnh dưới, chụp ngày 23-4-1994 trước khi ông mất đúng một tuần). Có lẽ ít ai hát “Gửi Người Em Gái Miền Nam” của Ðoàn Chuẩn - Từ Linh hay như ông Lộc Vàng. Nhiều đoạn ông hát khác nhiều so với lời với bài hát hiện tại. Nghe ông Lộc Vàng hát mà như nghe ông độc tả chính ông và những người bạn đã có lúc phải bước đi nhưng không dám ngước nhìn: “Mỗi khi hát, tôi đều hồi tưởng đến những kỷ niệm đã từng có với những người bạn thân và vợ. Khi đứng lên sân khấu đôi khi không hát hết được cả bài vì nước mắt cứ tuôn ra”.
Bây giờ, ông sống luôn ở quán. Bà vợ ông đã mất hơn 10 năm nay nhưng mỗi khi hát trên sân khấu ông lại khóc. “Tôi chỉ ước vợ tôi sống lại, ở bên cạnh tôi, nghe tôi hát. Ngày xưa, tôi đi hát vợ tôi bế thằng lớn theo sau. Mấy ông bạn bảo: Trời rét, để con ở nhà mang con theo làm gì? Vợ tôi trả lời: Em không đi nghe hát đâu mà để nếu chồng em có bị bắt lần nữa, em còn biết đường đi tiếp tế”. Bà ra đi để lại cho ông hai người con và một tình yêu chưa bao giờ nguôi ngoai: “Tôi biết cô ấy từ năm 17 tuổi, chơi thân với nhau, rồi yêu nhau sau đó. Ngoài 20 tuổi tôi phải vào tù, 31 tuổi ra tù, thiên hạ dị nghị, kinh sợ tôi hơn một gã tù lưu manh, chỉ có cô ấy không ngại, vẫn yêu, vẫn thương tôi”. Vì người mình yêu, bà bỏ nghề ca sĩ làm nghề bán đậu phụ ngoài vỉa hè. Suốt quãng đời bên nhau chưa một lần vợ Lộc Vàng trách cứ ông về tình yêu với dòng nhạc mang đến nhiều hệ lụy.
Ngày nay, góc quán nhỏ số 17A của nghệ sĩ Lộc Vàng với những mái lá và bàn tre nằm khiêm tốn trên con đường mới ven Hồ Tây vẫn vang lên tiếng hát. Tiếng hát mà ông đã đánh đổi cả cuộc đời mình để giữ gìn, nâng niu. Khách vào quán sẽ bắt gặp một bức ảnh một người mặc áo sơmi trắng ngồi châm thuốc cho một người hành khất. Người mặc áo sơmi trắng là ông Lộc và người hành khất không ai khác chính là ông Toán (ảnh dưới, chụp ngày 23-4-1994 trước khi ông mất đúng một tuần). Có lẽ ít ai hát “Gửi Người Em Gái Miền Nam” của Ðoàn Chuẩn - Từ Linh hay như ông Lộc Vàng. Nhiều đoạn ông hát khác nhiều so với lời với bài hát hiện tại. Nghe ông Lộc Vàng hát mà như nghe ông độc tả chính ông và những người bạn đã có lúc phải bước đi nhưng không dám ngước nhìn: “Mỗi khi hát, tôi đều hồi tưởng đến những kỷ niệm đã từng có với những người bạn thân và vợ. Khi đứng lên sân khấu đôi khi không hát hết được cả bài vì nước mắt cứ tuôn ra”.
Ngày nay, mỗi đêm được thỏa thuê hát những khúc nhạc tiền chiến, đối với ông là một sự an ủi lớn lao của cuộc đời. Ông hát say mê và nồng nàn, như để ném mạnh vào quá khứ những ngày ông và bạn bè bị coi là “phản động”, những ngày ông và bạn bè sống lê lết, “cúi mặt mà đi”. Và những ngày vợ ông từ một ca sĩ phải đi bán bún đậu trên hè phố chỉ vì liên quan đến “phản động”. Có lẽ được hát chỉ là mảng sáng duy nhất của số phận của những người trót gửi tình yêu cho những khúc hát tưởng như vô tội ấy. Ðêm nay, ông lại hát “Ðêm đông”, như một đêm nữa gửi những hương gió tình yêu đến những người bạn thời xa vắng.
(tổng hợp từ nhiều tài liệu)
.............../.