Tuần trước dư luận trong nước xôn xao về sự kiện Việt Nam mua
13 đoàn tàu của Trung Quốc cho tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông. Người
dân đặt nghi vấn là tại sao phải mua của Trung Quốc, trong khi công nghệ
tàu đường sắt của các nước tiên tiến chất lượng cao hơn. Hơn nữa, Việt Nam
đang nhập siêu nhiều với Trung Quốc, ai cũng thấy phải cải thiện quan hệ
một chiều này.
Bộ trưởng Giao thông Vận tải Đinh La Thăng đã giải đáp thắc mắc
nầy trong buổi gặp mặt báo chí ngày 9-6. Nếu những ý kiến của Bộ trưởng
phản ảnh trên báo là chính xác thì thật đáng lo cho Việt Nam. Tôi thật sự
ngạc nhiên nhưng hiểu được lý do tại sao Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào
kinh tế Trung Quốc trong nhiều phương diện. Sự kiện này cho thấy nhiều lãnh
đạo, quan chức Việt Nam, những người quyết định vay vốn nước ngoài, không
hiểu hoặc không chịu tìm hiểu tình hình và chế độ hiện hành trên thế giới
để so sánh điều kiện của Trung Quốc với các nước khác, từ đó quyết định
chọn nước đối tác có lợi nhất cho Việt Nam.
Trong dự án 13 đoàn tàu nói trên được biết Trung Quốc cho vay
vốn và đặt điều kiện phải dùng tiền đó mua tàu của họ. Bộ trưởng Đinh La
Thăng bảo rằng nước nào cho vay cũng đặt điều kiện như vậy, chẳng hạn Nhật
Bản hay Hàn Quốc cũng như vậy.
Điều này hoàn toàn sai. (Trước khi chứng minh nhận định
đó là không đúng, ta có thể đặt thêm một câu hỏi nữa: Nếu các nước khác
cũng có cùng điều kiện đó, tại sao lại chọn Trung Quốc? Công nghệ của Trung
Quốc cao hơn?)
Việc các nước tiên tiến hỗ trợ vốn vay ưu đãi (gọi là ODA mà ở
Việt Nam dịch là viện trợ phát triển chính thức) cho các nước đang phát
triển có một lịch sử đã trên 50 năm. Trong giai đoạn đầu (khoảng trước thập
niên 1980), đúng là hầu hết ODA đều có ràng buộc phải mua máy móc, vật
liệu, tư vấn kỹ thuật từ nước cho vay (gọi là tied loan). Sau
đó hình thức nầy dần dần chỉ còn là ngoại lệ, nhường chỗ cho hình thức cho
vay không ràng buộc (untied loan) phổ biến hơn. Đó cũng là kết quả
của các thỏa thuận giữa Mỹ, Nhật, Pháp, Đức, Anh.., những thành viên trong
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Để cho dễ hiểu và đi ngay vào vấn đề, tôi giới thiệu trường hợp
của Nhật Bản tại Việt Nam hiện nay.
ODA của Nhật Bản có 2 loại:
Loại tặng không (grant) dùng cho lãnh vực giáo dục, y
tế,… và loại cho vay (yen loan) dùng cho việc xây dựng hạ tầng.
Loại cho vay cũng có hai hình thức:
Vay không ràng buộc (untied loan) trong đó nước đi vay
có thể mua vật tư, thiết bị, tư vấn kỹ thuật từ bất cứ nước nào xét thấy có
lợi nhất (qua hình thức đấu thầu công khai).
Hình thức thứ hai là vay có ràng buộc (tied loan) nhưng
điều kiện rất ưu đãi mà Nhật gọi là STEP (Special Term for Economic
Partnership).
Loại STEP ràng buộc nên điều kiện lãi suất ưu đãi hơn loại untied
loan. Cần nói thêm là tuy STEP là loại tied loan nhưng
các công ty Nhật Bản phải cạnh tranh với nhau trong đấu thầu.
Các nước nhận ODA có thể chọn lựa giữa hai hình thức này. Theo
tôi biết, hầu hết các nước ASEAN nhận cả hai loại ODA vì loại ràng buộc
cũng dễ chấp nhận do lãi suất được ưu đãi hơn loại untied loan và
kỹ thuật, công nghệ, máy móc của Nhật được đánh giá cao.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, trong 5 năm qua (2010-2014), bình
quân mỗi năm ODA của Nhật Bản cung cấp cho Việt Nam theo hình thức STEP là
45 tỉ yen (lãi suất chỉ có 0,1%) và theo hình thức untied loan là
124 tỉ yen (thời hạn 30 năm, lãi suất 1,4%/năm). Như vậy ODA không ràng
buộc vào công ty Nhật Bản chiếm tới 73%, nghĩa là công ty Nhật phải tham
gia đấu thầu trong các dự án phát sinh từ nguồn vay nầy. Tỉ lệ công ty Nhật
thắng thầu cũng chỉ có 36%, không phải 100% như nhận định của ông bộ
trưởng.
Ngay cả trường hợp STEP là loại có thể hoàn toàn ràng buộc vào
Nhật, công ty Nhật cũng chỉ chiếm 87% vì họ mời các công ty Việt Nam cùng
tham gia trong việc cạnh tranh với các công ty khác của Nhật. Một thí dụ
gần đây là dự án sân bay Nội Bài tuy theo hình thức STEP nhưng được thực
hiện bởi công ty Xây dựng Taisei của Nhật và Công ty Vinaconex của Việt
Nam, dự án cầu Nhật Tân cũng do một liên doanh giữa Nhật và Việt Nam xây
dựng.
Việt Nam hiện đang nhận nhiều ODA, trách nhiệm của lãnh đạo,
của quan chức liên hệ là làm sao phải chọn lựa những nguồn vốn vay với điều
kiện ít phí tổn nhất và mang lại hiệu quả lớn nhất.
Trong quan hệ với Trung Quốc, ta đã thấy có nhiều hiện tượng
bất bình thường, như nhập siêu tăng ở mức dị thường, doanh nghiệp Trung
Quốc trúng thầu hầu hết các dự án trọng điểm trong các ngành quan trọng của
Việt Nam, nhiều dự án họ đưa giá rẻ nhưng sau khi thắng thầu họ điều chỉnh
giá và thương lượng lại, nhiều dự án không xây dựng đúng tiến độ và nhiều
trường hợp công trình mới xây xong đã bị hỏng hoặc xuống cấp, v.v.. ,.. Lao
động chui và lao động được cấp phép từ Trung Quốc sang cũng nhiều một cách
khó hiểu.
Nguyên nhân nằm ở đâu?
Dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông đã cho thấy một phần của vấn
đề.
Trước mắt cần công khai nội dung (qui mô vốn vay, thời hạn hoàn
trả, ràng buộc hay không, lãi suất, v.v..) tất cả các dự án vay vốn nước
ngoài, và phải chỉnh đốn ngay các quan hệ kinh tế với Trung Quốc, từng bước
điều chỉnh để kéo các hiện tượng bất thường nói trên trở lại trạng thái
bình thường, giống như quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác.
....../.
|