TỪ KHỔNG TỬ ĐẾN TỔNG KHỬ
Lý Thoát Trung
Việc Trung Quốc lập giải
Khổng Tử về Hòa bình, còn mở Viện Khổng Tử ở khắp nơi, thoạt nghe là một nghịch
lý. Đây là một nhân vật, sau mấy mươi thế kỷ được tôn sùng, rồi một thời bị
đánh tan hoang, sao bây giờ bỗng dưng lại được phục hồi để xuất khẩu[1]? Khổng giáo có nội dung gì đặc biệt mà
chỉ nay Đảng với Nhà nước Trung Quốc mới khám phá ra chăng?
Để tìm hiểu một cách súc
tích nhất có thể, tôi lôi quyển Cổ học Tinh hoa – thực
chất là Khổng học tinh hoa, từ lâu đã bị bỏ xó!) – ra đọc,
thì bắt gặp câu chuyện sau đây, do ông Liệt Tử nào đó kể lại[2].
Đức Khổng Tử đi chơi ra
phía đông, thấy hai đứa bé cãi nhau, hỏi tại làm sao, thì một đứa nói rằng: — “Tôi,
thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở gần ta hơn, về buổi trưa ở xa ta hơn”.
Còn một đứa nói: — “Tôi, thì tôi cho rằng mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn,
về buổi trưa ở gần ta hơn”.
Đứa trước cãi: — “Mặt
trời lúc mới mọc to như cái bánh xe, đến giữa trưa nhỏ như cái bát ăn, thế
chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì?”. Đứa sau
cãi: — “Lúc mặt trời mới mọc thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực,
thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì?”
Đức Khổng Tử nghe nói,
không giải quyết được làm sao. Hai đứa bé cười, bảo: — “Thế thì cho ông
là người đa trí thế nào được!”.
Người bàn câu chuyện trên
không phải là ông Liệt Tử, và coi bộ cái đầu chưa hề liệt. Ông bênh cụ Khổng
như sau: “Nhưng ở vào cái đời ông Khổng, khoa học chưa có mấy, thì xem
hai đứa bé suy lý với nhau, đứa nào cũng phải, khó lòng mà quyết định được
thật. Vả lại người thông minh, thánh thiện đến đâu cũng không sao biết cho hết
mọi sự vật được. Vì rằng đời người sống có hạn, mà sự tri thức thì mông mênh
không bờ bến nào!”. Đúng và hay quá.
Điều còn làm tôi băn
khoăn là, dù chưa có điều kiện giải quyết như hai đứa bé, tại sao cụ Khổng lại
chưa bao giờ tự đặt được cho mình loại thắc mắc như của hai đứa bé kia nhỉ? Có
phải vì, trong bậc thang giá trị (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của
cái đạo đặt theo tên cụ, chữ trí chỉ đứng vào hàng áp
chót chăng? Nếu thế thì cụ có đủ lý do để không là bậc đa trí —
chẳng biết có thể gọi là bậc đơn trí hay thiểu trí được
chăng? Mặt khác, nếu hai đứa bé cứ trông thấy Khổng Tử hay nghe danh cụ đã khúm
núm, chẳng dám hó hé gì, thì liệu chúng có thể phát hiện ra mặt hạn chế nơi cái
trí của cụ chăng? May mà chúng chưa bị kẹt vào cái cơ chế mang tên cụ “tiên
học lễ”, hậu học… vấn!
Trở lại với lời bình. Nếu
nói như ông thầy bàn ở trên, thì cụ là bậc thánh thiện mà cái
trí đã phần nào bị chữ nhân hướng về cách ứng xử giữa con
người với nhau — thứ đời sau gọi là luân lý — giới hạn và lèo lái. Cho nên muốn hiểu thấu đáo cái trí của người Trung
Quốc, cả thời xưa lẫn thời nay, thì theo tôi không gì bằng xem việc áp dụng nó
vào các vấn đề con người, không phải trong chữ nghĩa lý thuyết mà trong hiện
thực.
Ở đây, còn gì rõ ràng hơn
là cách nửa này (nửa giống đực) của người Đại Hán thấm nhuần Khổng học đối xử
với nửa kia (nửa giống cái) trong lịch sử? Các đấng nam nhi và đức ông
chồng (không phải thằng) đã giữ bọn nữ nhi và thê thiếp như thế nào
để chúng không tháo chạy? Trong muôn ngàn biện pháp, họ đã nghĩ ra cách tinh tế
nhất: tặng cho nửa kia đôi giày sen gót ngọc.
Vì không nơi đâu khác có
được một Khổng Tử thứ hai, cũng không ở đâu khác có thể nghĩ ra cách giữ chân
này, tôi tin rằng đây là chính là hai biểu trưng không thể tách rời của
nền văn minh Trung Hoa vĩ đại. Nói đến cụ Khổng Tử ắt phải liên tưởng đến đôi
giày sen; trông thấy đôi giày sen ắt phải nhìn ra cụ Khổng, hay nói theo ngôn
ngữ bây giờ, “khủng” Khổng.
*
Viết đến đây tôi chợt
thấy bồn chồn, tự hỏi “Viết thế này có hơi oan cho cụ Khổng, vì sơ sài
quá không?”. Có lẽ cần đào sâu hơn chữ nhân và
chữ trí trong đạo Khổng, nếu không được ở tầm vị sư tổ
thì ít ra cũng phải ở cỡ các sư phụ đệ tử của Ngài. Thế là lại phải mò mẫm lật
từng trang sách cũ để tìm tòi thêm, cuối cùng rơi vào một câu chuyện tinh hoa
khác, ký tên Gia Ngữ[3]. Nó như sau :
Thầy Tử Lộ yết kiến Đức Khổng Tử. Đức Khổng
Tử hỏi:
- “Thế nào là người trí, thế nào là
người nhân?”.
Thầy Tử Lộ thưa:
-“Người trí là người làm thế nào để cho
người ta biết mình; người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình”.
Đức Khổng Tử bảo:
-“Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là
người có học vấn”.
Thầy Tử Lộ ra, thầy Tử Cống vào. Đức Khổng
Tử lại hỏi người trí, người nhân là thế nào?
Thầy Tử Cống thưa:
- “Người trí là người biết người; người
nhân là người yêu người”.
Đức Khổng Tử bảo:
-“Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là
người có học vấn”.
Thầy Tử Cống ra, thầy Nhan Hồi vào. Đức
Khổng Tử lại đem trí, nhân ra hỏi. Thầy Nhan Hồi thưa:
-“Người trí là người tự biết mình; người
nhân là người tự yêu mình”.
Đức Khổng Tử bảo:
-“Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ
quân tử”.
Nếu đây là một cuộc sát hạch, thì thầy Nhan
Hồi đỗ đầu, thầy Tử Cống đứng nhì, còn thầy Tử Lộ về bét.
Cũng thời là hỏi đáp, song khác với cái ông
Socrate xứ Athènes kia (người không bao giờ tự vỗ ngực xưng là sư phụ mà luôn
luôn giả làm anh học trò dốt để nghe kẻ tưởng mình hiểu biết phát biểu), ở đây
cụ Khổng chễm chệ trong vai sư tổ, không hề ban phát lời vàng ngọc nào mà chỉ
gật gù đánh giá ba ông đệ tử cũng vào bậc thầy.
Nhưng căn cứ vào lời phán, có thể đoán rằng
quan điểm về nhân và trí ở cấp “vạn thế sư biểu” chắc
cũng na ná như ở cấp “sĩ quân tử” thôi.
Người bàn giải thích thêm: “Có biết
mình thì mới tu tỉnh được tâm thân, cải quá thiên thiện mà nên người hay, người
khá, tức cũng như câu “Connais toi toi-même” của Tô-lạp-thị (cha
nào vậy ta?). Có yêu mình, thì mới biết trọng tư cách của mình, quý phẩm giá
của mình rồi mới ra đến thân nhân dân, ái vật, tức cũng như câu tục ngữ Pháp “la
charité bien ordonnée commence par soi-même”.
Nghe cũng hay quá.
Nhưng
muốn biết giá trị của cây trồng, thì phải nhìn vào hoa trái. Khổng giáo đã để
lại trong lịch sử và trong hiện tình Trung Quốc những con người như thế nào, về
nhân và trí?
Tôi ngờ rằng tầng lớp tinh hoa của Trung
Quốc – tôi nói chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế[4] – đã đạt được trình độ của thầy Nhan
Hồi hay thầy Tử Cống, nhất là trong các nghĩa mà ông thầy bàn ở trên đã giải
minh.
Về chữ nhân, tôi e rằng họ sống rất “yêu
mình”, song theo một nghĩa thô bạo hơn của thầy Nhan Hồi nhiều, là làm
sao cho bản thân giàu hơn, sướng hơn, khỏe hơn: bằng sự băng đầu, bịt mắt, che
tai dân chúng; bằng nạn cửa quyền, tham nhũng; bằng những hàng giả, hàng dỏm,
hàng nhái không trả tác quyền cho người nước ngoài; bằng các bộ phận trộm hoặc
cướp từ thân thể kẻ túng quẫn hay tù tội… – dù chúng gây thiệt hại, có khi là
chết chóc cho kẻ khác, kể cả trẻ sơ sinh. Mà như thế thì cũng đâu có thể xem là “yêu
người” theo nghĩa của thầy Tử Cống được?
Về chữ trí cũng thế.
Chỉ cần nhìn thẳng vào trường hợp Khổng Tử,
sẽ thấy ngay trình độ “biết mình” kiểu thầy Nhan Hồi ở các
giới tinh hoa Trung Quốc: cũng một ông triết gia ấy thôi mà cả nước, lúc xì xụp
cầu lạy, lúc ầm ĩ vùi chôn, sau lại xí xồ khai quật, rồi cuối cùng công kênh
inh ỏi làm biểu tượng văn hóa chính thống!
Họ có thực sự tự biết mình đã và đang nghĩ
gì, làm gì chăng?
Còn hiểu theo khả năng “biết người”
kiểu thầy Tử Cống thì sao? Ở đây, chính sách tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải bằng
thủ đoạn hù dọa nước nhỏ, khiêu khích nước lớn, đã khởi động cả một cuộc chạy
đua vũ trang ở Thái Bình Dương, kéo Hoa Kỳ trở lại Đông Nam Á trong sự hân hoan
cổ vũ của các quốc gia trong vùng, và tạo ra nhiều liên minh chống bành trướng
Trung Quốc. Cái danh nghĩa “trỗi dậy hòa bình” bỗng đột quỵ,
lò ra cái đuôi cáo đế quốc trá hình. Đánh giá địch thủ sai quá đỗi như thế mà
xem là có trí được ư?
Nhiều lắm cái trí nói đây
chỉ thích hợp với trình độ thầy Tử Lộ. Người trí là kẻ “làm cho người ta
biết mình”. Và tôi tin rằng theo nghĩa này, số lượng người trí của
Trung Quốc cao vô kể.
Cả thế giới đều biết họ rất thân thuộc
với cái ác: ác ngay cả với kẻ đồng hương, kể cả trẻ sơ sinh (vì chính sách một
con, bao nhiêu triệu con gái mới đẻ đã bị hy sinh để chỗ chờ con trai?, bao
nhiêu trẻ sơ sinh đã chết vì uống sữa made in China?...); ác với
súc vật (xưa Từ Hi đập đầu khỉ múc óc đãi khách; nay ở nhiều quán ăn, thực
khách chỉ cần chỉ vào mảng thịt nào của con bò đang còn sống, thì đầu bếp sẽ
xẻo mảnh thịt ấy ra nấu nướng phục vụ!).
Cả thế giới đều biết họ rất giỏi làm đồ
giả và đồ nhái, không cần phải nhắc lại dài dòng. Nhưng có lần tôi khen “người
Trung Quốc giỏi quá, cái gì họ cũng làm giả được, từ màng trinh đàn bà, đến
tiền, thức ăn, máy tính và vàng!”; một cậu bé bướng bỉnh chỉnh tôi ngay:“Không
đúng đâu bố; họ đâu có giả nhân, giả nghĩa được!”.
Cho nên tôi chỉ sợ rằng, khi “làm cho
người ta biết mình”kiểu đó, thì làm sao giới tinh hoa Trung Quốc cháu chắt
cụ Khổng có thể đồng thời “làm cho người ta yêu mình” nổi?
*
Việc thành lập Viện Khổng
Tử ở khắp nơi biểu thị cái ý muốn “làm thế nào để cho người ta biết
mình, làm thế nào để cho người ta yêu mình” ấy, gọi đích danh ra là
tuyên truyền chính trị. Và tất nhiên ai cũng biết quan hệ của nó với bộ máy
chính quyền Trung Quốc[5], nên cũng đều thừa hiểu cái bản chất hai
mặt của nó.
Trong một bài phỏng vấn trên RFI Việt ngữ,
ông Nguyễn Xuân Diện, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội, đã nêu lên những
nguy cơ tiềm ẩn từ Viện Khổng Tử sẽ được thành lập ở Việt Nam như sau:
“Chúng tôi rất lo lắng bởi vì Viện Khổng
Tử này chắc chắn không phải được lập nên để tuyên truyền về giáo lý, tinh thần
triết học hay cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử, cũng như về Nho học : Nhân,
Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Tam Tòng Tứ Đức... Thực chất đây sẽ là một trung tâm văn
hóa và ngôn ngữ, nhằm giới thiệu, quảng bá về văn hóa Trung Quốc: thi ca, âm
nhạc, ẩm thực, trà đạo..., và sẽ có những giao lưu văn hóa giữa các nghệ sĩ
Việt Nam và Trung Quốc. Đằng sau đó luôn là những hoạt động tư vấn về du học,
tức là kéo thanh niên Việt Nam đến Trung Quốc du học ngày càng nhiều. Đây cũng
sẽ là trung tâm dạy Trung văn, tức là tiếng Hoa. Đó là những hoạt động bề nổi,
còn đằng sau nó chắc chắn sẽ là những hoạt động tuyên truyền sâu rộng hơn nữa
về mặt văn hóa và tư tưởng, về một nước Trung Hoa hiện đại. Chính vì vậy nhiều
nhà quan sát cho rằng việc thành lập Viện Khổng Tử chính là một sự thể hiện
quyền lực mềm của Trung Quốc, hoặc có người gay gắt hơn thì nói rằng đấy là
bước đầu đặt cơ sở cho việc bành trướng văn hóa”.
Ông Diện nói đúng quá. Từ vài năm nay, bước
vào một hiệu sách ở Saigon, ta có thể thấy nhiều của “lạ”:
Về chính trị, bên cạnh tiểu sử các nhà lãnh
đạo Việt Nam, có không ít sách về các nhân vật lãnh đạo chính trị và quân sự
Trung Quốc (Nxb Chính trị). Thôi thì cứ cho đấy là chuyện ngoại giao! Nhưng ở
các kệ sách tổng quát, đã xuất hiện một số sách dịch mới, mang tính giáo dục
tuyên truyền rất lộ liễu về Trung Quốc đương thời, với đủ các mặt: Quốc
phòng, Xã hội, Dân tộc và tôn giáo, Lịch sử, Chế độ chính trị, Địa lý, Văn hóa,
Khoa học kỹ thuật và giáo dục, Ngoại giao, Pháp luật, Kinh tế, Môi trường, Vườn
cảnh, Gốm sứ, Truyền thuyết thần thoại, Rượu, Thủ công mỹ nghệ truyền thống, Lễ
Tết, Đồ nội thất, Ẩm thực, Phục sức, Hí kịch… (Nxb Tổng hợp
Tp Hồ Chí Minh xuất bản, Nxb Truyền bá Ngũ châu phát hành).
Về văn hóa, ngoài loại sách vẫn thấy từ
thời trước về triết học (Khổng, Mạnh, Lão, Trang…), và văn học (Tây Du,
Thủy Hử, Tam Quốc…), một loại sách nặng tính “xâm lăng văn hóa” cũng
đã ló mặt, để ca ngợi cái trí của người Trung Quốc, như Mưu
trí thời Tần Hán, Mưu trí thời Tùy Đường, Mưu trí thời Liêu Kim Hạ, Mưu trí
thời Nguyên Minh, Mưu trí thời nhà Thanh, Mưu trí thời Xuân Thu, Mưu trí thời
Chiến Quốc Thất Hùng[6]… (Nxb Văn học), hoặc
các danh nhân Trung Quốc, như 12 Đại Thừa tướng, 12 Đại Mưu
lược gia, 12 Đại Hoạn quan, 12 Đại Tham quan, 12 Người đẹp Trung Hoa…(Nxb
Văn hóa Thông tin)[7].
Trong bối cảnh này, việc thành lập Viện
Khổng Tử có thể sẽ trở thành bộ não của những hoạt động xâm nhập văn hóa mà
Trung Quốc xem là “chưa được hệ thống hóa đúng mức” ở Việt Nam. Hoạt động của
nó sẽ không chỉ giới hạn vào việc dạy ngôn ngữ và thông tin một chiều có lợi
cho Trung Quốc như ở các nước Phi châu chẳng hạn. Nếu ở nơi sinh thành, Khổng
Tử được phục hồi với ý đồ vuốt ve tự ái dân tộc (TA cũng có một hiền giả tầm cỡ
nhân loại như ai!) và tạo thêm một chân đứng cho chủ nghĩa toàn trị (hệ thống
độc đảng kiểu Lênin sẽ được hỗ trợ bởi truyền thống không có gì quý hơn
phục tùng, trật tự và không có gì đáng sợ hơn phản biện, phê
phán của vị vạn thế sư biểu), thì ở nơi từng chịu ảnh hưởng sâu đậm
của Khổng giáo, chắc chắn là cái ý đồ thứ hai cũng sẽ được tiếp đón bởi tập
đoàn toàn trị trong niềm hân hoan, nếu không phải là lòng biết ơn sâu sắc!
Nhưng nhân dân Việt Nam thì khác.
Từng xem Khổng Tử là đầu mối của họa mất
nước trong thế kỷ thứ XIX, họ không có lý do gì ăn lại cái món họ đã nhổ ra,
nhất là khi nó biểu thị một cái họa Bắc thuộc khác.
Họ thừa biết có cái gọi là “lý thuyết”, và
có cái gọi là “hiện thực” trong các giá trị nhân, lễ, nghĩa, trí, tín của
văn minh Trung Quốc.
Người Việt thừa sức thấy rằng, trong thế kỷ
thứ XXI sCn này, chẳng có gì là đáng học thêm ở đạo Khổng, ngay cả ở cái phiên
bản chân chính nhất của nó.
Họ thừa thấy là, từ xưa tới nay, cái chữ trí ở
người Trung quốc luôn luôn đi đôi với chữ mưu (như ở
các tựa sách nói trên). Cho nên dân Việt đã kết luận, một
lần dứt khoát: kẻ gọi là “đối tác chiến lược toàn diện ưu tiên” này
chẳng dạy ta được gì cả, bởi vì cái trí của nó chưa bao
giờ là trí huệ hay trí tuệ hết cả, mà vẫn muôn đời là trí trá.
Hãy khiến cho cái Viện Khổng Tử vừa được
quyết định thành lập ở Việt Nam này – một mảng quan trọng của quyển Mưu
trí thời Đặng Tập – cái số phận khôi hài của Giải
Khổng Tử về Hòa bình[8]. Hãy làm cho thứ quyền lực
mềm này thành quyền lực nhão. Hãy làm cho nó hiện nguyên hình là một hình thức
bịt đầu kiểu “giày sen gót ngọc” xưa kia.
Sang thăm Pháp, tôi được xem cảnh quay một
lớp đào tạo cán bộ ở Bắc Kinh, trong một phim tài liệu mang tựa là Những
giới hạn của quyền lực mềm: các học viên lo ngại rằng loại Viện Khổng
Tử danh nghĩa (bởi đâu thể đặt tên là Viện Mao Trạch Đông!), song song với sự
đề cập đến Trung Quốc kiểu nện dùi cui vào đầu này, sẽ làm cho người nước ngoài
tò mò hơn, tìm hiểu thêm về hiện tình nội bộ Trung Quốc, thì “toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân” chỉ có nước độn thổ.
Có một thời để báo động, và một thời để
hành động. Rõ ràng là hai bộ máy toàn trị đã lùi thêm một bước nữa về quá khứ:
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc,
bỗng chuyển sang từ trần, nhường chỗ cho thời kỳ kinh tế thị trường “với
định hướng xã hội chủ nghĩa”, rồi bây giờ là thời kỳ chính trị phong kiến “với
định hướng xã hội chủ nghĩa”!
Không lừa được bằng tương lai huyễn hoặc,
thì bịp bằng truyền thống “kính lão đắc thọ”. Có điều người dân Việt Nam
đã quá hiểu, cả cái hủ lậu nọ, cái hão huyền kia, lẫn chiếc cầu tiếp nối hai bờ
đó.
Họ thừa biết rằng, để thoát khỏi sự tăm tối
của đất nước và con người Việt Nam hôm nay, ta cần phải đạp đổ tật cả mọi thứ
tàn dư và mộng mị – nghĩa là làm một cuộc tổng vệ sinh. Hãy biến cái Viện Khổng
Tử đang thành hình thành một đích nhắm cho chiến thuật “một mũi tên hai thành
quả”. Vài thanh niên đã “dậy mà đi”. Và ông lão nhà bên đã đủ lạc quan để ư ử
ngân nga một bài vè con cóc: “Viện Khổng Tử ra đời, Điềm tổng khử đã tới,
Bắt đầu khử Tổng thôi!”. Tôi ghi lại để mọi người cùng suy ngẫm.
[1] Khổng
Tử sống giữa thế kỷ thứ VI và thứ V (551-479) tCn. Do đó, có thể xem như ảnh
hưởng của ông trên văn hóa Trung Quốc đã kéo dài từ thế kỷ thứ V tCn cho đến
thế kỷ thứ XIX sCn (khoảng 24 thế kỷ), khi Trung Quốc thất thế nhục nhã trước
phương Tây. Từ lúc đó, văn hóa Khổng giáo bị xem là nguyên do của sự suy đồi
của Trung Quốc, tư tưởng của ông còn bị đánh tơi bời trong cái gọi là cuộc “đại cách mạng văn hóa vô sản” thời
Mao Trạch Đông (1966-1969), nhất là trong các năm 1971-1974.
Quá
trình phục hồi Khổng Tử được xem như bắt đầu khoảng cuối thập niên 1980 –
khi chân dung của 4 ông râu xồm nước ngoài (Marx, Engels, Lenin, Stalin) tại
Thiên An Môn bỗng dưng bay mất, rồi sau được thay thế bằng pho tượng Khổng Tử
cao 9 thước, đặt bên trái song cách khá xa chân dung của Mao Trạch Đông chễm
chệ trên cổng vào quảng trường – và kết thúc năm 2011, khi tờ Nhân dân Nhật báo
trích dẫn câu tuyên bố ngắn ngủi sau của một vị lãnh đạo ĐCSTQ (không nêu tên): “Khổng Tử là biểu tượng của nền văn hóa Trung Quốc”.
Giải thưởng Khổng Tử về hòa bình được đặt ra vào năm 2010, với một phần
thưởng khoảng 11000 euros, trong tham vọng thay thế giải Nobel về hòa bình. Còn về Viện
Khổng Tử, tính đến tháng 7-2013, đã có khoảng 327 cái được thành lập ở hơn 90
quốc gia và khu vực trên thế giới.
[2]
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân. Cổ học Tinh hoa. Hà Nội, 1925. Q.
I, tr. 40-42. Đây là hai quyển sách chỉ tập trung giới thiệu tư tưởng của nhà
nho, do đó, nếu đặt tên là Khổng
học Tinh hoa có lẽ sẽ chính danh hơn nữa.
[4]
Tôi không nói về văn hóa và khoa học, vì không nắm được tình hình bên trong.
Bên ngoài, vẫn có những người gốc Trung Quốc đoạt được các giải thưởng cao quý.
Nhưng có lẽ họ chỉ mắc nợ hệ thống giáo dục và không khí văn hóa của nơi họ
định cư mà thôi; gán cho Khổng Tử loại thành tích này thực sự là vu khống cụ.
[5] Các
Viện Khổng Tử được thiết lập theo mô hình đối tác (liên kết Văn phòng Uỷ ban
Quốc tế về Tiếng Trung gọi tắt là Hán Ban, một trường Đại học Trung Quốc, và
một trường Đại học nước ngoài), song tất cả đều được quản lý bởi Hán Ban (tổ
chức quần chúng phi lợi nhuận, do một nhóm người xuất thân từ Hội đồng Nhà
nước, Bộ Giáo dục, Bộ Ngoại giao và Bộ Văn hoá Trung Quốc điều khiển).
[6] Ở
đây, hãy so sánh với các tên sách về cái trí ở những nơi khác: Trí tuệ Ả Rập, Trí tuệ nước Mỹ, Trí tuệ nước
Pháp … (Nxb Thời đại).
[7] Tình
hình sách báo này, tôi thực tình thấy đáng báo động, mặc dù so với lượng sách
về thế giới nói chung, số sách về Trung Quốc cũng chưa lấy gì làm vĩ đại lắm.
Ông chủ tiệm sách còn ranh mãnh đặt đối diện với các kệ sách trên (không thấy
bao nhiêu người viếng mua) loạt sách Danh nhân Lịch sử Việt Nam với bao anh hùng, anh thư
nổi tiếng, cùng các loại sách đối trọng khác, cũng có đủ bộ hoạn quan, tham
quan và người đẹp bản xứ chứ chẳng thua kém gì.
[8] Giải
Khổng Tử về Hòa bình được đặt dưới sự quản lý của Hiệp hội Nghệ thuật Bản xứ
Trung Quốc, với một ban giám khảo gồm có một đại tá Quân đội Giải phóng, một ký
giả Nhân dân Nhật báo và một thủ lĩnh của trường đảng. Hiệp hội này bị Nhà
nước đình chỉ và thay thế bằng Trung tâm Nghiên cứu về Hòa bình của Trung
Quốc vào năm 2011. Giải thưởng đã được trao cho: Lien Chan năm 2010 (Phó tổng
thống Cộng hòa Trung Hoa, ông này không đến nhận), Vladimir Putin năm 2011 (qua
một phát ngôn nhân, Putin cho biết ông không hay biết gì về giải thưởng này!), Kofi Annan và nhà nông
học Yuan Longping năm 2012.
Vì Giải Khổng Tử về Hòa bình được đặt ra khi Liu Xiaobo được trao tặng Giải Nobel về
Hòa bình năm 2010, tờ The
Economist đã so sánh nó, rất chính đáng, với Giải thưởng Quốc gia Đức về Nghệ thuật và Khoa học (do
đảng Quốc Xã Đức đặt ra, sau khi cấm Carl Von Ossietzky nhận giải Nobel về Hòa
bình năm 1935) và Giải Stalin
về Hòa bình (sau đổi tên thành Giải Lenin về Hòa bình, do Liên Xô đặt ra cũng sau khi cấm Andrei Sakharov nhận Giải
Nobel về Hòa bình năm 1975). Ôi,
vinh quang!
........./.