[...] câu chuyện cách đây đúng 20 năm, về
một bài báo tôi còn nhớ mãi, coi là một tuyệt tác của nền văn học – thông tin
báo chí thời hiện đại.
Đó là bài báo xuất hiện trên tuần báo Văn nghệ,
cơ quan của Hội Nhà Văn Việt Nam, số 27, ra ngày 4 tháng 7 năm 1992.
Số báo này được nghiêm lệnh "tuyệt
mật" của Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương đảng CS hồi đó "triệt để
thu hồi" ngày 8 tháng 7, sau khi ra được 4 ngày.
Các bạn trẻ ngày nay chắc chưa biết gì về
hiện tượng văn hóa – chính trị lý thú này.
Đó là bài Linh Nghiệm, rất ngắn, chỉ chừng
2 ngàn chữ, hơn một trang báo khổ nhỏ. Bài báo nói về một con người, về tham
vọng và “học thuyết” của con người ấy, về quần chúng bị con người ấy mê hoặc,
và về sự kết thúc là công toi, là trắng tay, nhưng vẫn còn nhiều người bị cám
dỗ đi theo hoài. Tác giả là nhà văn Trần Huy Quang, trong tòa soạn báo Văn
nghệ, lúc ấy ở tuổi 49, tuổi vận hạn. Anh bị đuổi khỏi báo, bị treo bút 3 năm.
Nhà văn Hữu Thỉnh, chủ bút báo bị khiển trách.
Bài báo vừa kín đáo như đánh đố bạn đọc,
vừa gợi mở, với giọng điệu diễu cợt hóm hỉnh, lại vừa nghiêm trang triết lý,
nói về cuộc đời của một anh thanh niên gốc nông dân lại không muốn tu tỉnh học
hành. Anh ta chỉ muốn xuất dương tìm một nguồn học thuyết thần bí để tiến thân
thành lãnh tụ. Do thủ thuật tinh ma, anh ta mê hoặc và lôi kéo vô vàn con
người, lũ lượt theo chân mình để đi tìm “cái ấy”, nhưng không bao giờ tìm thấy
Vườn hoa Mùa Xuân – Thiên đường trên trái đất.
Anh ta là ai vậy?
Ngay chữ đầu tiên của bài báo đã nêu rõ tên
anh ta, vậy mà rất ít người nhận ra. Nhà văn Trần Huy Quang thật khôn khéo, có
thể nói vui là tinh ranh. H…INH là tên. H rồi 3 chấm, rồi INH, ai cũng đọc là
Hinh, nhưng không phải, đó là tên “Hồ Chí Minh" được cô gọn lại. Kín mà
hở, hở mà vẫn kín, vì thời trẻ ông Hồ mang tên Nguyễn Sinh Coong, rồi Nguyễn
Tất Thành. Chả thế mà qua mắt được 2 người duyệt, có chữ ký duyệt của thủ
trưởng ban biên tập và của thư ký tòa soạn trước khi đưa in. Không ai nghĩ
H…INH là Hồ Chí Minh cả. Và lọt lưới suốt 4 ngày, rồi cả Ban Tư tưởng – Văn hóa
mới giật bắn mình, thốt lên: Thằng này láo quá, dám vuốt râu cụ Hồ, tội đáng
chết, đáng xử trảm. Nhưng chậm quá rồi. Lệnh thu hồi, phá hủy không mấy có hiệu
quả. Không thể ra lệnh công khai, càng kích thích tò mò và gây chú ý, sẽ bất
lợi to. Cho nên quả sơ xuất này cay, cay hơn ớt chỉ thiên.
[...]
Từ những năm 1980 Trần Huy Quang đã có
những phóng sự Ông Vua Lốp, Lời khai của bị can, Người làm chứng, Chiếc áo màu
lửa rất được chú ý, vì luôn bênh vực những người bị cường quyền áp bức..
Được biết sau Linh nghiệm anh được bạn bè
gọi yêu là "Người dám vuốt râu Ông Cụ”.
Blog Bùi Tín
—————————————————–
Linh nghiệm
Tác Giả: Trần
Quang Huy
H…INH là con trai
thứ ba trong một gia đình nông dân, không nghèo nhưng cũng chẳng giàu có gì
lắm. Cha anh ta có đỗ đạt, đã từng làm quan nhưng tính khí thất thường, lòng
đầy ham hố nên quan trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy học ở chốn
kinh kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn cước.
Hinh thừa hưởng ở
dòng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài
bão tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn
bè cùng lứa không ai dám kết làm bằng hữu.
Hinh sáng dạ, lại
có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô,
Mông-tét-ski-ơ…bằng nguyên bản, nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất
ngoại.
Đạo học không có
đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn
chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi.
Hằng ngày Hinh
sống như người nuốt phải quả chuỳ gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn,
vừa ngồi đã đứng lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang
phải lòng một tiểu thư khuê các.
Nhưng Hinh đâu
phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà.
Vớ vẩn! Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì
phải vượt trùng dương.
Hinh ngước cái đầu
mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần
thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiên hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để
đưa về cho chúng sinh.
Tháng ngày như sợi
chỉ căng mà lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ
dưới chân bậc Chí Thánh và nói :”Ơn người. Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt
chúng con…Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người…”
Thế rồi, như sự
linh nghiệm của lời nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng đất trời như trong
cơn đau sinh nở, Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí linh.
Bắt đầu là một
ngọn nến, ánh lửa dịu ấm, toả một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy toả hào
quang, tia hào quang không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm
vầng sáng ấy hiện ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.
- Kính thưa… Hinh
bàng hoàng thốt lên.
- Không phải! – cô
gái mỉm cười độ lượng – Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập đạo. Anh có lời thỉnh
cầu gì gấp lắm không? Người đang bận, việc hành đạo chỉ ở bước khởi đầu.
- Kính thưa, tôi
là người của xứ Nhọc nhằn tăm tối…
- Thôi, anh không
cần phải nói, chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc
hành đạo mới càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo Đạo thư này, anh sẽ tìm
được chân lý.
Vị sứ giả trao cho
Hinh Đạo thư quý giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái
chấm chính giữa vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách
trước trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run
dở ra đọc:
“Hãy đi về phía Nam theo con
đường một bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt
chó ; đừng nhìn vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi
:”Có đi không ?” thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ
cám dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp, sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ
trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm
bước từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất để “tìm cái này”. Cứ thế…chỉ cần một
lúc sau,anh sẽ có được thiên hạ.”
Hinh ấp cuốn Đạo
thư vào ngực tức tưởi : “Trời ơi,bảo bối, bảo bối…”. Hinh sung sướng hét toáng
lên. Tiếng anh vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một
giấc mơ. Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu
nay lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt
giàn giụa. “Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng
đường chúng ta đi…”
Sáng hôm sau, Hinh
thành kính chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất, mũ miện đàng hoàng. Trước nhà
anh có một đại lộ chính Nam ,
có lẽ đúng là con đường này nên anh dấn bước ra đi. Một bên cây và một bên
nước, hay một bên rừng một bên biển. Anh cứ đi, qua vài đoạn phố nữa thì anh
thấy mình đi đúng con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt
chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn vào đó. Ôi sự linh nghiệm không sai một dấu
phẩy. Đường phố trong veo, lui cui mấy chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong
đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích-lô cà tàng đi tìm
khách. Vài cô gái điếm vật vờ.
- Có đi không?
Một cô gái điếm rủ
rê. Hinh nhớ đến giấc mơ mà thấy lạnh xương sống; trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến
cuối phố, Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật; chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự
kỳ diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách?
Đi tiếp gặp một
ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi
một đoạn qua các cửa hàng bách hoá đã thấy vườn hoa Mùa Xuân.
Kẻ hành đạo không
chần chừ đắn đo, đi tới giữa vườn hoa, lòng ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay
lên, một nửa trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không
biết con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại… "Tìm
cái này” là tìm cái gì , anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc
của đấng Tiên tri.
Vườn hoa nằm cạnh
đại lộ, lúc này đang vắng hoa, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng
thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba đi học sắp qua. Bây giờ anh phải
khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất… Hinh vừa cúi
lom khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không biết
mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ gíáo, người cúi lom
khom, mắt dán xuống đất và bước từng bước một chậm rãi.
Những người đang
qua đường lấy làm lạ. Bắt đầu là nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn
hiếu kỳ đi đến và tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ ? Chúng không thể
tự giải đáp được.
- Anh ơi, anh tìm
cái gì đấy?
Hinh mải mê không
hề nhìn lên, chỉ buột miệng trả lời:
- Tìm cái này.
Đối với chúng, câu
trả lời ấy, làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay
hạt xoàn gì đó thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm.
Thế là cả bọn, cặp
sách dồn lại một đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục
sạo tìm kiếm thì sự lạ càng tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không
bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm…
đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không
thể không hỏi:
- Tìm cái gì đấy?
Lần này thì tụi
trẻ con đã mau miệng trả lời:
- Tìm cái này!
Câu này đối với
người lớn làm ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào
quảng trường.
Rồi tiếp đến… Bây
giờ là dân xích-lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám
bụi đời móc túi nghe tin cũng tìm đến.
- Tìm cái gì đấy?
- Tìm cái này.
Mả mẹ chúng nó,
giấu như mèo giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru-bi, có lẽ tối qua tụi đào đá
đỏ qua đây đánh nhau đổ ra một bị đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết
trước, ông rào lại, ông đuổi tất. Ông kia được một viên rồi hả, bắt nộp phạt,
chúng mày!
Cứ thế…
Và số người hy
vọng có một chút no ấm bò lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông
như đàn kiến.
Hinh chợt nhận ra
tiếng ồn của đám đông và anh ngạc nhiên đứng nhìn họ. Hoá ra thiên hạ đang bu
lại xung quanh mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ. Hinh sung sướng đến
rơm rớm nước mắt và mãn nguyện ra về.
Cái đám đông ấy cứ
như dòng nước trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước thất vọng
ra về trước, người đến sau thất vọng ra về sau. “Tìm cái này” là cái gì thì
không ai biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn
lắm, để họ trở thành một dòng nước.
Trưa.
Rồi chiều.
Và… vẫn còn đám
đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân.
Trần Huy Quang
_____________________________________________________
(Truyện ngắn này được đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số 27 ra
ngày 04.7.1992. Bị thu hồi và có lệnh hủy sau khi phát hành 4 ngày, nhưng càng
được tìm đọc. Tác giả Trần Huy Quang bị treo bút 3 năm. Tổng biên tập lúc ấy là
Hữu Thỉnh, tuy đi vắng, vẫn bị nghiêm khắc khiển trách. Tác giả cho biết phải
suy nghĩ hơn 10 năm mới viết được truyện ngắn cô đọng này ; anh phải suy nghĩ
chọn từng câu, từng chữ, từng ý, từng hình ảnh...)
Nguồn: VOA - Blog Bùi Tín