Lan man chuyện
“HỌ”… và TÊN
http://phamluuvu.wordpress.com/lan-man-chuy%E1%BB%87n-%E2%80%9Ch%E1%BB%8C%E2%80%9D-va-ten/
*****
Họ là một hình
thức sở hữu huyết thống, nguồn gốc, sở hữu tổ tiên của con người. Con người
mang cái sở hữu ấy suốt đời, truyền từ đời này sang đời sau. Bắt đầu một kiếp
người, cùng với việc đặt tên, mỗi người liền có “họ”. Sở hữu nòi giống đảm bảo
an toàn cho quá trình tiến hoá, tránh bị thoái hoá. Thứ sở hữu này ở loài người
có lẽ có trước cả ngôn ngữ. Bằng chứng là ở một số loài khỉ, những con có chung
huyết thống cũng biết không bao giờ giao phối lẫn nhau. Cùng với việc hình
thành ngôn ngữ, khái niệm “họ” (tính) liền được thiết lập, đồng thời với việc
phân biệt các cá thể bằng cách đặt tên. Từ đó, “họ” và “tên” luôn luôn đi kèm
với nhau. Trong đó “họ” chỉ huyết thống, còn “tên” chỉ cá thể.
Khó ai thống kê
cho hết thiên hạ có bao nhiêu họ. Thời phong kiến gọi là “bách tính” (trăm họ),
cũng như bây giờ gọi “nhân dân”. Vua ngày trước vì “bách tính” mà (miễn cưỡng?)
ngự trên ngai vàng. Bây giờ cũng vì nhân dân mà (đành?) phải… quên mình…?
Họ bên Tàu phức
tạp, rắc rối hơn ta nhiều. Có khi lấy họ đặt tên cho đất (ví dụ đất Đường, đất
Ngu…). Có khi lấy tên đất đặt cho họ (ví dụ họ Đào, họ Tiết…). Lại có khi lấy
quách chức quan mà làm họ (ví dụ họ Tư Mã…)
Dù thế nào thì bên
Tàu cũng không dùng họ của vua để đặt tên cho triều đại, mà dùng tên đất (nơi
phát tích – quê hương của kẻ lập nên triều đại ấy) để gọi (ví dụ nhà Minh, nhà
Thanh…). Khác hẳn với bên ta dùng họ của vua để đặt tên triều đại (ví dụ nhà
Lý, nhà Trần…). Đây chính là một trong những ý thức độc lập, tự chủ (về mặt
chính trị) của ông cha ta ngày trước, quyết không chịu nhất nhất cứ phải bắt
chước theo “thiên triều”. Tên triều đại không có nghĩa là tên nước (quốc hiệu).
Đó là hai danh từ riêng hoàn toàn khác nhau, một đằng chỉ “nhà” (tên triều
đại), một đằng chỉ “nước” (quốc hiệu). Chẳng ai gọi nước Lý, nước Trần… mà vẫn
cứ là nước Đại Việt. Cũng như chẳng ai gọi nước Minh, nước Thanh… mà vẫn cứ là…
nước Tàu.
Tuy nhiên, nước ta
(hình như) có một ngoại lệ duy nhất là vào thời Hồ Quý Ly ngắn ngủi (vỏn vẹn
bảy năm 1400 – 1407). Hồ Quý Ly vốn có tổ tiên là người đất Ngu bên Tàu xiêu
dạt sang ta. Sau khi cướp ngôi nhà Trần, ông bèn dập khuôn theo cách của Tàu để
đặt tên cho triều đại mình, gọi là triều Đại Ngu. Các nhà sử học xưa nay liệu
có lầm không khi cho rằng “quốc hiệu” của nước ta khi đó cũng là… “Đại Ngu”?.
Gọi là nhà “Đại Ngu”, thì cũng giống như việc gọi là nhà “Lý”, nhà “Trần”…
trước đó thôi chứ. Sao tên nước lại cũng đồng thời là “Đại Ngu” được? Người
chép sử chép như thế, phải chăng đã (vô tình?) đánh đồng tên triều đại với tên
nước? Nếu quả như vậy thì chẳng lẽ trước đó, tên nước ta cũng có thể gọi là
nước “Lý”, nước “Trần”… hay sao? Nếu “Đại Ngu” (rõ ràng) chỉ là cái tên “nhà”
(triều đại), thì tên “nước” (quốc hiệu) ta thời ấy vẫn cứ là “Đại Việt” đấy
chứ?. Nghĩa là, hiểu một cách chính thống (theo cách đặt tên của chính Hồ Quý
Ly) thì không có nhà “Hồ”, mà chỉ có nhà “Đại Ngu” (của họ Hồ), tương tự nhà “Minh”
(của họ Chu ) bên Tàu lúc bấy giờ. Cũng như
chưa bao giờ có tên nước là “Đại Ngu”, mà trước sau, nước ta vẫn tên là “Đại
Việt”. Xin các vị sử gia “đèn giời” minh xét. Người viết không phải ngại gì cái
nghĩa nôm na của chữ “Ngu” (娛) to tổ bố kia mà lý sự nhập nhằng đâu.
Cũng xin mở ngoặc
thêm một tí (gọi là lan man mà). Các nhà sử học đã từng làm cho dân ta tự hào
về một nhánh của họ Lý, do một hoàng tử đời nhà Lý dẫn đầu, xiêu dạt sang Triều
tiên từ thế kỉ 12, có đời đã từng làm tới chức tể tướng ở bên ấy. Vậy tưởng
cũng nên công bằng với một vị hoàng tôn lừng lẫy đời nhà Trần sau đây. Ấy là
vào khoảng những năm 1360 – 1366, con trai vị “Quốc vương” bán nước Trần Ích
Tắc, tên là Trần Hữu Lượng theo người cha (hèn) chạy sang Tàu. Vào cuối đời nhà
Nguyên, Trần Hữu Lượng đã dám chiêu tập binh mã, đường đường tranh nước với
đích danh Chu Nguyên Chương – vị vua lập nên triều đại nhà Minh (mà ông suýt
thắng Chu Nguyên Chương nếu không bị phản bội). Người viết không hiểu tại sao
Trần Hữu Lượng khi lập nước (ở bên Tàu) lại đặt tên cho triều đại mình là nhà
“Hán”? Trần Hữu Lượng đâu phải người đất Hán? Lại cũng không gọi theo họ (là
nhà “Trần” phẩy chẳng hạn?). Điều này phải chăng có liên quan đến giấc mơ của
vua Trần Thái Tông trước khi sinh hoàng tử Trần Ích Tắc, cho rằng Ích Tắc là
người phương Bắc đầu thai? Mặc dù nhà “Hán” của Trần Hữu Lượng tồn tại ngắn
ngủi có bảy năm. Song cũng phải công nhận ông là một bậc anh hùng cái thế. Đó
gọi là “cẩu phụ” mà vẫn sinh “hổ tử” đấy. Xin các nhà sử học hãy đừng vì “cẩu
phụ” mà lờ tịt vị “hổ tử” ấy đi. Nói (dại) chứ nếu (chẳng may) mà ông đánh bại
Chu Nguyên Chương, chiếm lấy ít ra thì cũng từ phía nam sông Dương Tử, hoặc
thậm chí toàn cõi Trung Hoa, thì lịch sử cũng như cương thổ giữa nước ta với
nước Tàu ngày nay hẳn sẽ khác đi rất nhiều.
Khái niệm “họ” từ
chỗ chỉ dùng để ghi nhớ gốc gác, tổ tiên, cũng dần dần bị nhuốm màu sắc khác.
Ngày xưa, họ của vua là cao quý nhất, gọi là “quốc tính”. Vua dùng nó để “ban”
cho các bậc công thần. Trần Bình Trọng với câu nói khảng khái bất hủ: “Ta thà
làm quỷ nước Nam ,
chứ không thèm làm vương đất Bắc” chính là một người được ban “quốc tính”. Ông
vốn họ Lê, dòng dõi Lê Đại Hành (Lê Hoàn). Vị danh nhân văn hoá thế giới thời
Lê sơ là Nguyễn Trãi cũng được ban “quốc tính”. Các văn bia ông soạn còn lại
cho đến nay đều khắc “bút danh” là Lê Trãi. Đến đời Lê Thánh Tông (1460-1497),
vị vua anh minh này thấy cái “trò” ban quốc tính ấy càng ngày càng trở nên
phiền toái (đại khái dần dần, nó cũng tệ lậu tương tự như vấn nạn… “sùng bái
lãnh tụ” sau này). Không những thế, điều đó chỉ tổ làm cho những kẻ được ban…
mất gốc mà thôi. Lê Thánh Tông bèn xuống chiếu bãi bỏ việc đó, cho phép những
ai đã trót “bị” ban quốc tính được trở về họ cũ. Thế là Lê Trãi lại trở về
Nguyễn Trãi…
Ngược lại với cái
thứ “ân huệ” ban quốc tính trên, vì những lý do nhất định, vua có khi còn bắt
bề tôi phải đổi sang họ khác. Như Trần Kiện cùng đám con cháu hèn nhát chạy
theo quân Nguyên, về sau không cho mang họ Trần nữa, bắt đổi sang họ Mai (thật
là oan ức cho những nhà họ Mai vốn vẫn có từ trước đó). Riêng Trần Ích Tắc vì
là chỗ máu mủ ruột thịt nên vua (Trần Nhân Tông) không nỡ xóa họ. Nhưng gọi là
“Ả Trần” (ngụ ý như đàn bà) cho nó… nhục nhã luôn thể. Lại còn cái thứ kị “huý”
mà bắt người ta phải đổi sang họ khác. Ví dụ thời Lê sơ, vì tránh tên bà mẹ đẻ
ra Lê Thái Tông là Phạm Thị Trần mà bắt những người họ Trần phải đổi sang họ
Trình…
Việc đổi họ cổ kim
còn vô vàn lý do. Nhà thờ họ Bùi ở một làng nọ thờ ông Tổ là… Trần Thủ Độ. Vị
Thái sư danh tiếng với câu nói bất hủ trước họa giặc Nguyên tám thế kỉ về
trước: “đầu thần còn chưa rơi xuống đất – xin bệ hạ đừng lo”. Không phải vì
“thấy người sang bắt quàng làm họ”, mà họ Bùi làng ấy tôn thờ ông đâu. Ông
chính là ông Tổ của dòng họ Bùi ấy đấy. Nhưng Trần Thủ Độ họ Trần. Cớ sao lại
là ông Tổ của họ Bùi?
Người viết bèn đem
điều thắc mắc ấy hỏi một cụ cao tuổi họ Bùi. Té ra họ Bùi làng ấy vốn gốc từ họ
Trần thật. Vào thời xa xưa, trong họ sinh chuyện bất hoà. Một nhánh của họ Trần
bèn tách ra lập họ riêng, song vẫn không muốn cho con cháu quên cái gốc (là họ
Trần) của mình. Các cụ thời ấy bèn đi từ nghĩa Nôm của chữ “Trần”. Trần nghĩa
là… ở trần, là không mặc áo. Không mặc áo thì là phi y (không áo). Chữ phi (非) và chữ y (衣) ghép
lại thành chữ Bùi (裴).
Thế là được một cái tên họ. Trần = phi + y = Bùi. Thật là một cách cấu tạo họ
độc đáo.
Có nhiều câu
chuyện tương tự về cái sự cải họ ấy. Ví dụ họ Mạc. Sau khi Trịnh Tùng (con thứ
của Trịnh Kiểm) phò vua Lê dẹp tan nhà Mạc, lập ra triều đại gọi là Lê Trung
hưng. Triều đình Lê Trịnh bắt đầu một cuộc khủng bố đại quy mô nhằm vào con
cháu nhà Mạc. Họ Mạc chạy tứ tán khắp nơi, phải thay tên, cải họ để tránh những
cuộc truy sát. Tuy nhiên, để ngầm nhắc cho con cháu sau này không quên cái gốc
(là họ Mạc) của mình, các cụ Tổ Mạc thời ấy quy ước với nhau giữ lại bộ thảo đầu (艹) trong chữ Mạc (莫) , thành ra
các dòng họ Phạm (范); họ Hoàng (黄)… mà
chữ viết đều có bộ thảo đầu ấy.
3/2006
Phạm Lưu Vũ
....../.