Mỹ tục
http://phamluuvu.wordpress.com/mi-t%E1%BB%A5c/
[...] Cụ Cả Lễ, người cao tuổi nhất làng Kinh vốn được coi là một bộ
bách khoa toàn thư sống của cả làng. Khách nghe tiếng tìm đến cụ như tìm đến
một địa chỉ văn hóa cuối cùng còn sót
lại. Chờ cho cụ an tọa, khách lễ phép cất tiếng hỏi:
“Làng ta vẫn giữ truyền thống là một làng văn hiến đấy chứ, thưa
cụ?“.
Cụ Cả Lễ râu tóc bạc trắng như một ông tiên, ngước đôi mắt kỉ hà
nhìn khách hồi lâu, đoạn chậm rãi trả lời:
“Việc ấy anh đi mà hỏi ông chủ tịch. Lão đây không dám giả
nhời“.
Khách thoáng ngạc nhiên, bèn chuyển sang đề tài khác:
“Nghe nói cụ biết rất nhiều sự tích của làng…?“.
Cụ Cả Lễ vẫn chậm rãi, đôi mắt nhìn xa xăm tận đâu đâu:
“Cái đó tùy duyên thôi. Sự
tích cũng tùy duyên mà có…“.
Cụ vừa nói đến đấy thì có đứa cháu chạy đến xin cụ chùm chìa khóa
nhà xí để đi… ị. Khách ngạc nhiên quá, bèn hỏi ngay:
“Nhà xí mà cũng phải khóa
ư, thưa cụ?“.
“Ấy đấy, cái ‘duyên’ nó đến rồi đấy – cụ Cả Lễ bảo khách – Phải
khóa chứ. Thậm chí phải bí mật để đề
phòng kẻ xấu ăn trộm. Làng này có tục đi ỉa phải giấu cứt. Người đi nhiều như
anh mà cũng chưa bao giờ nghe nói đến hay sao?“.
Đến đây thì khách kinh ngạc thật sự. Chẳng lẽ làng này là “truyền
nhân” của… giống mèo cả hay sao mà lại có cái “tục“ kì lạ như vậy.
Té ra cái gì cũng có sự tích của nó cả.
Sau đây là câu chuyện kể của cụ Cả Lễ:
Kể rằng thiền sư Căng Lulu vốn người làng Kinh, tên tục gọi là
Ngục Văn, hồi bấy giờ làng này còn có họ Ngục. Căng Lulu là pháp hiệu. Ngài
xuất thân trong một gia đình trưởng giả. Bình sinh lúc nào cũng xe ngựa rình
rang, tấp nập kẻ hầu người hạ, ngày ngày toàn ăn thịt cá, lại hưởng không thiếu
gì lạc thú trên đời. Bỗng một hôm thời thế đổi thay, gia tài dần dần khánh
kiệt, kẻ hầu người hạ bỏ đi hết cả. Từ đó chỉ còn biết ăn rau cỏ qua ngày. Ngục
Văn phẫn chí bèn bỏ làng ra đi, sang tận bên Tàu, tìm đến thiền sư Triều Châu
xin học đạo. Các đệ tử của sư thấy Ngục Văn toàn thân tróc ghẻ, người ngợm hôi
hám có ý không ưa, xui sư đuổi đi. Sư nói:
“Cứ gì hôi hám. Hễ có duyên thì khắc ngộ được đạo“.
Các đệ tử hỏi vậy Ngục Văn có duyên gì? Sư đáp:
“Duyên đọc được bụng dạ của kẻ khác“.
Rồi cho xuống tóc, đặt pháp hiệu là Căng Lulu. Song mấy năm trời
không thấy sư nhìn ngó gì đến, cũng không hề giảng cho một câu, chỉ cho phép
cắp tráp theo hầu như một chú tiểu. Một hôm thầy trò đang đi đường, Căng Lulu
chợt nhìn thấy một con trâu đang ỉa bãi phân to tướng, trong lòng bỗng nổi tâm
cơ, bèn buột miệng hỏi:
“Thưa… Phật pháp là cái gì vậy?“.
Sư hỏi lại:
“Ngày trước ngươi toàn ăn thịt cá, vậy ngươi ỉa ra cái gì?“.
“Ỉa ra cứt“ – Căng Lulu trả lời ngay.
“Thế lúc chỉ ăn rau cỏ, ngươi ỉa ra cái gì?“. – Sư hỏi tiếp.
“Cũng… cứt“ – Căng Lulu ngập ngừng.
“Pháp đấy! Pháp đấy“ – Sư nói liền hai tiếng.
Căng Lulu hoát nhiên đại ngộ.
Tự bấy giờ các quán đều thông, bốn tướng hợp một, trí huệ rực rỡ,
Căng Lulu trở thành thiền sư.
Ngài bèn tìm về làng cũ, lập một chiếc am nhỏ ở đầu làng, hàng
ngày đọc kinh, thiền định… rồi “hóa“ ngay tại đó. Lâu dần cỏ dại trùm kín, nơi
có chiếc am của thiền sư trở thành hoang phế.
Một hôm có anh đánh dậm đi qua bỗng nổi cơn đau bụng, bèn chui
vào giữa chỗ ấy ỉa một bãi. Tối hôm đó về nhà, đang ngủ, anh đánh dậm bỗng thấy
một bóng người bước vào nhà bảo:
“Ngươi sắp bị mọc một khối u ở trong bụng mà chết. Hãy uống một
bát nước ở cái giếng chỗ ta thì sẽ khỏi…“.
Anh đánh dậm không tin, bèn hỏi lại:
“Làm sao ông biết?“.
“Xem cứt ngươi ta biết“ – bóng người kia trả lời. Nói xong biến
mất.
Anh đánh dậm toát mồ hôi, giật mình tỉnh dậy. Hóa ra một giấc mơ. Chợt nhớ đến việc ỉa bậy lúc
ban ngày, anh chàng trong bụng cũng thấy hơi hoảng song vẫn nửa tin nửa ngờ.
Khoảng tháng sau, anh ta cảm thấy có cục gì cứ chướng lên giữa bụng, ăn uống
không tiêu được. Cái cục cứ lớn dần, lớn dần, đến nỗi bụng trương phềnh lên,
cứng ngắc, từ đó chỉ còn nằm một chỗ, không đi lại được nữa. Vợ con anh ta bán
cả đồ đạc, lợn gà, mời hết thầy thuốc này đến thầy thuốc khác. Song ai cũng lắc
đầu, nhất loạt bảo anh chàng sắp chầu ông bà ông vải đến nơi.
Về phần anh đánh dậm, từ khi bị mọc cái u trong bụng thì biết
rằng mình đã ỉa bậy vào chỗ thiêng nên bị thánh vật. Vì thế cứ cắn răng chịu
đựng, không dám nói cho vợ con biết. Bấy giờ mười phần đã chết đến chín rưỡi,
anh ta mới phều phào kể lại cho vợ nghe về giấc mơ hôm trước. Người vợ nghe
xong lập tức tìm đến chỗ đã từng có cái am. Phát cây vạch cỏ mãi, quả nhiên có
một cái giếng nhỏ sâu hút, nước trong vắt. Bèn múc đại một bát đem về cho chồng
uống. Cũng chỉ là cầu may thế thôi. Không ngờ bát nước quả nhiên hiệu nghiệm
thật. Anh chồng uống vào đến đâu thì bụng réo ùng ục đến đấy. Rồi cái khối u cứ
xẹp dần. Ba ngày sau hết hẳn, lại đi lại được như thường.
Câu chuyện của anh đánh dậm chẳng mấy chốc loang ra khắp làng.
Dân làng cho rằng vị thiền sư ngày trước của làng mình thế là đã hiển linh, bèn
bàn nhau kẻ góp công người góp của làm một ngôi đền tại ngay chỗ đó gọi là đền
“Cứt“. Thật là một cái tên độc nhất vô
nhị trên thế gian này.
Tại sao lại có cái tên xấu xí như thế?
Nguyên các cụ ngày trước truyền rằng đền ấy thiêng lắm, cầu gì
được nấy. Có điều đồ cúng không dùng thứ gì khác ngoài… cứt. Ai có bệnh cứ mang
một đĩa cứt của mình tới, múc một bát nước ở cái giếng ấy, đem để cả hai thứ
bên cạnh nhau trên bàn thờ rồi thắp hương khấn vái. Đợi cho cháy hết hương, đem
bát nước về mà uống thì bách bệnh tiêu tan. Ngôi đền từ đó nổi tiếng, người
thiên hạ lũ lượt tìm đến…
Song điều kì diệu nhất của ngôi đền là những người đến cúng cứt
không những khỏi bệnh, mà tất cả những gì vốn giấu kín trong bụng xưa nay đều
bất ngờ ứng vào miệng thiên hạ mà lộ ra hết cả. Người lương thiện thì chẳng
sao, bởi chẳng có gì mờ ám phải giấu giếm. Song đối với những kẻ lưu manh, bất
lương, những kẻ chuyên nghề bịp bợm thì đó quả là một đại họa.
Xưa nay con người ta cứ tưởng sự thật một khi đã được giấu trong
bụng thì sẽ kín như bưng đời đời.
Ai dè hàng ngày nó vẫn theo đường bài tiết mà chuồn ngoài. Thế là
cùng với sự chữa khỏi bệnh là khối sự thật bị phơi bày, khối mặt nạ bị rơi
tuột. Khối kẻ khoác áo đạo đức té ra lưu manh, khối vị phụ mẫu chi dân té ra
phường bất lương gian ác… Vả lại con người ta mấy ai không hề có chút gì mờ ám
trong lòng… Vì thế người tìm đến chữa bệnh cứ thưa dần, thưa dần. Có kẻ thà
chết chứ nhất định không chịu mang cứt đến cầu cúng.
Thế rồi lại sinh ra cái nghề ăn trộm cứt mang đến đền để vạch
những chỗ xấu của nhau.
Kẻ trên, người dưới, đồng liêu, đồng nghiệp, hàng xóm láng giềng…
rồi thì cả cha con, chồng vợ… cứ gọi là loạn cả lên. Cứt té ra lại là chỗ dễ
làm bại lộ chân tướng nhất. Người vùng này có tục giấu cứt kể từ hồi đó. Ai
cũng lo phòng xa bởi biết đâu đấy, dẫu mình không tự mang cứt đến cầu song nhỡ
có kẻ khác lấy trộm, mang đến cúng thì bao nhiêu điều giấu giếm của mình cũng
sẽ bị phơi bày cho thiên hạ biết hết. Mới hay cái gọi là sự thật, hóa ra lại là
thứ mà con người ta luôn luôn khiếp sợ.
Vì thế giấu cứt mới nhanh chóng trở thành một cái tục của cả vùng
này. Giấu cứt đồng nghĩa với giấu sự thật…
Dù sao thì sự hiện diện của ngôi đền cũng là điều cảnh báo đối
với những kẻ rắp tâm làm điều xấu. Làng Kinh từ đó ít hẳn sự dối trá, bịp bợm.
Trẻ con được cha mẹ theo dõi, rèn cặp trở nên ngoan ngoãn, biết lễ phép với
người lớn. Người lớn đối xử với nhau thân ái, chân tình, không dám hại nhau vì
biết sự thật trong bụng sớm muộn gì cũng sẽ thoát ra bên ngoài. Làng Kinh có
tiếng là một làng văn hiến từ đấy…
“Thế cái đền ấy bây giờ có còn không, thưa cụ?“. – Khách hỏi.
“Phá rồi -cụ Cả Lễ trả lời – Phá trước tiên. Sau đó mới phá đến
đình chùa. Phá từ cái hồi bắt đầu phong trào Hợp tác hóa nông nghiệp kia“.
Khách ngẩn người ra tiếc rẻ. Hồi lâu lại hỏi:
“Phá đền phá đình rồi thì có ảnh hưởng gì đến văn hiến của làng
không, có làm cho sự dối trá càng tha hồ hoành hành không thưa cụ?“.
“Việc ấy anh đi mà hỏi ông chủ tịch – cụ Cả Lễ vẫn từ chối khéo –
lão đây chỉ biết nói với anh rằng cái tục giấu cứt thì không những vẫn còn, mà
ngày nay người ta còn giấu kĩ hơn trước…“.
[...]
cuối tháng 6 năm 2007
PHẠM LƯU VŨ
......./.