Hồ Chí Minh: Tôi hạ lệnh cho nhân dân
Phạm Thị Hoài
Trong tập 4, bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, có một
văn bản ngắn như sau :
Lời kêu
gọi đồng bào Bắc Bộ
Hỡi đồng bào
Bắc Bộ!
Việc bất hợp
tác sáng hôm qua chẳng những không do mệnh lệnh Chính phủ mà trái với chính
sách Chính phủ. Việc đó tỏ rằng một số quốc dân chưa hiểu kỷ luật. Biết theo
những mệnh lệnh Chính phủ, làm cho thế giới thấy rằng dân tộc ta xứng đáng độc
lập, Chính phủ ta có đủ oai quyền. Vậy tôi, Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Lâm
thời, hạ lệnh cho nhân dân Bắc Bộ lập tức đình chỉ việc bất hợp tác, giữ thái
độ bình tĩnh giúp Chính phủ giữ gìn trật tự.
Đồng bào yêu
mến tôi, nghe lời tôi.
Người đọc không
được biết gì về bối cảnh của lời kêu gọi đó, ngoài xuất xứ rằng nó được in
trong cuốn Lời Hồ Chủ tịch của Nxb Tiến Hóa, Hà Nội, năm 1946,
trang 45. Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với chính quyền mới như
thế nào? Vì lí do gì? “Sáng hôm qua” là sáng ngày nào trong những ngày đầy ắp
sự kiện phức tạp của hai năm 1945-1946 [1]? Hi vọng sẽ có nhà nghiên cứu
lấp được lỗ hổng thông tin đó. Phần mình, tôi chú ý đến văn bản lạ này vì chỉ
qua vài dòng, chân dung ông Hồ được bổ sung thêm một số nét, khiến việc đọc
phía sau mặt chữ trở nên thú vị. Phía sau mặt chữ, chứ không phải giữa hai hàng
chữ. Thông điệp ở đây là rõ ràng, không có gì hàm hồ, bóng gió.
Một người như thế
nào thì có thể cho phép mình phát ngôn: “Tôi hạ lệnh cho nhân dân”? Trong mọi
ngôn ngữ, câu này đều tất yếu gây ra ấn tượng về một nhà độc tài. Các nhà lãnh
đạo quốc gia ở những thể chế phi độc tài không buột miệng ra một câu như vậy
ngay cả khi ngủ mơ, ngay cả trong những khoảnh khắc họ không muốn gì hơn là
được làm chính xác như thế. Nhưng ngay cả một Putin, một Lý Quang Diệu, một
Hugo Chávez cũng không phát ngôn như vậy. Còn Hồ Chí Minh?
Cho đến trước đó
chỉ có kinh nghiệm hoạt động cách mạng và tham gia lãnh đạo một số phong trào,
tổ chức, đảng phái bí mật, ông Hồ dường như xa lạ với tất cả những gì làm nên
một chính khách chuyên nghiệp. Ông cũng không chuẩn bị cho mình và các đồng chí
của ông một cơ sở lí luận và tư tưởng cho việc cầm quyền trong một nhà nước
hoàn toàn mới, sinh ra từ việc chôn vùi nhà nước cũ [2]. Những năm tháng đầu tiên đứng
đầu một nước Việt Nam mới, tác phong và ngôn ngữ của ông là của một bậc cha chú
cai quản gia đình hay của một giáo chủ, một trưởng thượng, hơn là của một
nguyên thủ quốc gia. Tuyệt đối tin vào uy tín của mình với quốc dân, toàn bộ uy
lực khi hạ lệnh cho nhân
dâncủa ông xuất phát từ lập luận: đồng
bào yêu mến tôi thì nghe lời tôi. Các học
trò của ông sau này, không người nào có thể tự tin vào uy tín của mình để hồn
nhiên buông ra một lời như vậy. Tất nhiên vâng lời lãnh tụ theo tiếng gọi của
tình cảm là một trong những cách cai trị ưa thích của các nhà độc tài và không
hiếm khi kĩ năng mị dân của họ thăng hoa thành nghệ thuật tự lừa mị [3]. Nhân dân Bắc Triều Tiên chắc
chắn cũng được giáo dục để có tình yêu trói buộc như thế với ba đời lãnh tụ họ
Kim, và nhân dân Cuba
với hai đời lãnh tụ họ Castro. Song ở trường hợp đang đề cập, tôi không khỏi có
cảm giác rằng phát ngôn của ông Hồ, với tất cả tính gia trưởng của nó, có một
sự ngây thơ và chân thành phù hợp với giai đoạn mà cuộc cách mạng của những
người cộng sản Việt Nam còn ấu trĩ, ít nhiều trong trắng, chưa quay ra ăn thịt
những đứa con của mình và nhe nanh vuốt với mọi đảng phái chính trị khác từng
một thời đồng hành. Nhiều lần tôi đã cảm động khi đọc một số bức thư, lời kêu
gọi của Hồ Chủ tịch ở giai đoạn này và trong vài năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Ở đó tôi thấy một chính khách bất đắc dĩ, tầm vóc tư tưởng không có
gì kiệt xuất, nhận thức về thế giới tương đối sơ sài, kinh nghiệm điều hành
quốc gia ít ỏi, nhưng đầy lãng mạn và còn đậm tính cách riêng tư.
Với thời gian,
những nét riêng tư ít nhiều chân thực của Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho một
hình ảnh nhân tạo ngày càng hoàn hảo. Sự hấp dẫn của cá nhân con người Hồ Chí
Minh dần nhường chỗ cho sự sùng bái biểu tượng Hồ Chí Minh. Ông không còn hạ lệnh cho nhân dânnữa, dù đồng bào không thôi yêu
mến ông và vẫn sẵn sàng nghe lờiông. Song nhà nước mà
ông liên tục đứng đầu gần một phần tư thế kỉ cho đến khi qua đời đã trở thành
một chính thể độc tài hoàn thiện. Ngôn ngữ cá nhân ít nhiều xác thực của lời
kêu gọi nêu trên, bất chấp nội dung của nó, sẽ dần nhường chỗ cho một ngôn ngữ
tuyên truyền công cộng thô thiển và giáo điều, cơ sở của toàn bộ ngôn ngữ tuyên
giáo kinh hoàng mà hiện nay chúng ta còn phải chịu đựng. Càng đọc Hồ Chí Minh
sau này, tôi càng thấy là các nhà tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến
giờ phút này không làm một việc gì khác ngoài lặp lại chính xác không những cái
gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, mà còn áp dụng trung thành cả những cách diễn
đạt, những lập luận và những thuật ngữ chính trị mà ông là cha đẻ.
Hồ Chí Minh là một
nhân vật lắp ghép từ rất nhiều mảnh to nhỏ, lỗ đen và khoảng trống. Trong bức
tranh chiết trung lạ lùng này, mảng mầu của hai năm 1945-1946 có lẽ là tươi
thắm hơn cả.
© 2013
pro&contra
__________________________________________________________
[1] Chính phủ Lâm thời chỉ tồn tại đến hết
năm 1945 và từ ngày 01-01-1946 được thay thế bằng Chính phủ Liên hiệp Lâm thời.
Như vậy, có thể lời kêu gọi này liên quan đến một sự kiện diễn ra ngay trong
năm 1945 nhưng năm 1946 mới được đưa vào sách.
[2] Trước Cách mạng tháng Mười, khi lưu
vong và sống trong một túp lều ở Phần Lan, Lenin đã viết tác phẩm kinh điển về
nhà nước chuyên chính vô sản Nhà nước và cách mạng. Không ai yêu cầu
ở Hồ Chí Minh một tầm vóc tương tự, nhưng trước tác chính luận chủ đạo của ông,
nếu ông cũng chính là Nguyễn Ái Quốc, trước tháng Tám 1945, gồm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường
cách mệnh (1925-1927)
tập hợp bài giảng về kiến thức chính trị phổ thông ở các lớp huấn luyện chính
trị Quảng Châu và Chiến thuật du kích (1942-1944), cho thấy một sự nghèo nàn
đáng chú ý ở một nhà cách mạng có ảnh hưởng quyết định đến số phận của một dân
tộc cho đến tận bây giờ.
[3] Trong phiên họp ngày 13-11-1989 của Quốc hội Cộng hòa Dân chủ Đức,
phiên họp đầu tiên sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, khi bị chất vấn trách
nhiệm, ông Erich Mielke, Bộ trưởng An ninh Quốc gia (Stasi) Đông Đức đã thốt
lên: “Tôi yêu mến tất cả mọi người cơ mà… Tôi phấn đấu cho tình yêu đó cơ mà.”
(Ich liebe doch alle Menschen. Ich setze mich
doch dafür ein.).
////////