Bản
kiến nghị
đề
cương cải cách giáo dục
phục
vụ yêu cầu phát triển của
đất
nước trong vài mươi năm tới
của
giáo sư Hoàng Tụy
Bản đề cương gồm ba phần chính:
I. Quan điểm tổng quát, cũng tức là triết lý cơ bản của giáo
dục mới.
II. Những vấn đề chính và cấp bách cần giải quyết.
III. Lộ trình và tổ chức thực hiện.
I. Quan điểm tổng quát
Đây có thể coi là vấn đề của mọi vấn đề, nó là cái gốc chi phối từ
sứ mạng, phương châm cho đến nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục.
Trong thế giới hiện đại, yêu cầu hội nhập quốc tế đặt ra ngày càng
gay gắt cho mọi dân tộc, nếu ta chỉ muốn xây dựng giáo dục theo con đường riêng
của mình, thì dù với những lý tưởng đẹp đẽ và dân khí rất cao như trong thời
hoàng kim của cách mạng, sớm muộn chúng ta cũng không tránh khỏi bị đào thải
trong cuộc cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Huống hồ sau 1975 đất nước đã bước
sang một giai đoạn lịch sử mới, có biết bao vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội phức tạp trước đây chưa bao giờ gặp. Hơn nữa sau khi giành được độc lập,
thống nhất, ta xây dựng lại đất nước trong bối cảnh cả nhân loại chuyển lên nền
văn minh trí tuệ. Nhiều cơ hội mới mở ra từ đây cho những dân tộc giàu
tiềm năng như chúng ta, đồng thời đất nước cũng đối mặt với những thách thức to
lớn không dễ gì vượt qua nếu không đủ dũng khí chia tay với những tập quán,
cách suy nghĩ, làm ăn, ứng xử, từng là nếp sống quen thuộc một thời.
Cho nên ngày nay hơn bao giờ hết, không gì cản trở sự tiến bộ của
xã hội hơn thái độ đóng kín, thiếu cởi mở với cái mới, e ngại thay đổi, chủ
quan tự mãn, không muốn, không dám nhìn thẳng vào những yếu kém của mình mà chỉ
say sưa tự ru ngủ với quá khứ vẻ vang và tự dối mình bằng những thành tích
tưởng tượng hoặc giả tạo.
Có thể nói đã sang thế kỷ 21 nhưng giáo dục của ta vẫn còn giữ khá
nhiều quan niệm cổ hủ thời phong kiến nho giáo, thậm chí thời trung cổ Châu Âu.
Nặng tính giáo điều kinh kệ, nhằm biến con người thành một phương tiện – dù là
phương tiện để thực hiện những lý tưởng cao quý – hơn là hoàn thiện con người
như một chủ thể tự do. Đã đến lúc cần nhìn thẳng vào thực tế để nhận rõ những
hệ luỵ tiêu cực của tình hình đó đối với tương lai dất nước. Thật sai lầm nếu
nghĩ rằng cứ áp đặt một ý thức hệ định sẵn vào nội dung và phương pháp giáo dục
thì sẽ đào tạo được những con người khuôn theo ý thức hệ đó. Kinh nghiệm thực
tế khắp nơi trên thế giới đều cho thấy ngược lại: sự mâu thuẫn xung khắc giữa
giáo lý trong nhà trường với thực tế phũ phàng ngoài xã hội thường là nguyên
nhân phát sinh và nuôi dưỡng gian dối, đạo đức giả và bạo lực, cuối cùng đưa
đến bất ổn trầm trọng trong xã hội.
Lịch sử các nước Phương Tây cho thấy chỉ sau khi thế tục hoá nhà
trường, tách nhà trường ra khỏi Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo thì khoa học, kỹ thuật
hiện đại mới có điều kiện phát triển mạnh mẽ, đồng thời Nhà Thờ không vì
thế mà mất vị trí tinh thần của nó trong xã hội. Đối với chúng ta, mà mục tiêu
tối thượng của dân tộc là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, tưởng cũng cần một giải pháp tương tự cho giáo dục mới có thể mở đường
chấn hưng đất nước. Cuộc sống từ lâu đã đòi hỏi nhà trường phải thoát khỏi chế
độ bao cấp tư tưởng với những ràng buộc giáo lý cứng nhắc đang có tác dụng kìm
hãm thay vì khai sáng trí tuệ (1).
Thay vào đó, cần đề cao tính nhân văn: rèn luyện nhân cách, phẩm chất trí tuệ,
năng lực cảm thụ, ý thức cộng đồng, như trong mọi nhà trường tiên tiến trên thế
giới. Đó mới chính là dạy người theo nghĩa cao quý nhất. Một khi sản phẩm của
nhà trường là những con người tự do, với nhân cách và phẩm chất hướng theo hệ
thống giá trị phổ quát của nhân loại thì cái mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh mới có cơ may hiện thực. Bằng không, nếu
chỉ chăm chăm đào tạo con người theo khuôn mẫu đúc sẵn thì cái mục tiêu ấy mãi
mãi xa vời. Bởi lẽ trong một thế giới, một thời đại, đầy biến chuyển khó lường
mà thế hệ chúng ta đang trải qua, mọi khuôn mẫu đúc sẵn đều không thể thích
nghi được.
Giáo dục hiện đang đứng ở ngã ba đường, giống như kinh tế những năm
giữa thập kỷ 80. Nếu lúc bấy giờ ta cứ kiên trì đường lối kinh tế tập trung bao
cấp và tiếp tục dị ứng với cơ chế thị trường như hồi 1968, khi đó VN đã cùng
với cả phe xã hội chủ nghĩa lên án mạnh mẽ chủ nghĩa xã hội thị trường Tiệp
Khắc (2 ), thì không biết điều gì đã xảy ra.
May thay, nhờ nhìn thẳng vào thực tế cuộc sống với tinh thần trách nhiệm cao
trước nhân dân, chúng ta đã kịp thời nhận ra nguồn gốc bế tắc của xã hội và đã
có can đảm thay đổi tư duy, chấp nhận chính cái cơ chế thị trường ngày nào đã
bị chúng ta bác bỏ. Đường lối đổi mới nhờ thế đã ra đời, cứu đất nước khỏi sự
sụp đổ nhãn tiền. Đó là bài học sâu sắc.
Ngày nay, sau mấy chục năm giáo dục chìm đắm trong khủng hoảng
triền miên bởi các ràng buộc ý thức hệ cứng nhắc, đã đến lúc chúng ta phải có
sự lựa chọn: hoặc là tiếp tục con đường cũ, tiếp tục giam hãm đất nước trong nền
giáo dục lạc hướng, ngày càng tụt hậu so với thế giới, hoặc là cương quyết thay
đổi tư duy, thực hiện bước ngoặc cơ bản, mở đường cho một giai đoạn giáo dục
khai phóng phát triển.
Đương nhiên đây là công việc không hề dễ dàng vì phải đoạn tuyệt
với nhiều quan niệm, cách sống và nếp nghĩ đã ăn sâu trong tâm khảm nhiều thế
hệ từ thời chiến đấu giành độc lập thống nhất. Nhưng là giải pháp trước sau gì
cũng phải làm, mà càng để chậm trễ thì đất nước càng hụt hơi, càng bị cô lập và
khó thích ứng kịp với những biến chuyển bất ngờ trong thế giới văn minh ngày
nay.
II. Những vấn đề chính cần giải quyết trong cuộc
cải cách giáo dục
Sau khi đã xác định quan điểm tổng quát về sứ mạng cơ bản của giáo
dục, mọi vấn đề cụ thể về tổ chức giáo dục, nội dung chương trình học các
cấp, phương pháp giáo dục, v.v . đều phải xem xét giải quyết trên
cơ sở quan điểm đó. Bản đề cương này không đi sâu vào các vấn đề cụ thể có tính
chất kỹ thuật là phần việc của các chuyên gia sau này mà chỉ tập trung nêu lên
những định hướng lớn làm nền tảng và khuôn khổ giải quyết các vấn đề cụ thể ấy.
Có 4 vấn đề lớn sau đây cần cấp bách giải quyết theo định hướng hội
nhập tích cực vào trào lưu chung của thế giới văn minh.
1. Cải thiện cơ bản chính sách đối với người
thầy, giải tỏa nghịch lý lương, để nhà giáo ở mọi cấp an tâm làm việc, toàn tâm
toàn ý với trách nhiệm cao cả của mình.
Có thể nói chính sách đối với người thầy là một trong những điểm
khác biệt cơ bản của giáo dục VN so với thế giới và là nguyên nhân trực tiếp
quan trọng nhất làm tha hóa giáo dục.
Có một nhà khoa học lớn nước ngoài tâm huyết với VN khi được hỏi về điều gì cần thay đổi cấp bách nhất để chấn hưng giáo dục, đặc biệt là đại học, đã không chút ngần ngại nói ngay đó là chế độ lương kỳ quặc không thấy đâu trong thế giới văn minh nhưng đã tồn tại dai dẳng ở VN từ hàng chục năm nay. Một chế độ lương biểu thị không gì khác hơn là sự khinh miệt đối với lao động giáo dục và khoa học, trái hẳn với chủ trương tôn vinh nhà giáo đã được lãnh đạo khẳng định lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần suốt thời gian qua.
Với đồng lương thấp đến mức khó tưởng tượng, đương nhiên nhà giáo
và các quan chức giáo dục đều phải xoay xở để kiếm thêm thu nhập. Chính đó là
cái lỗ hổng quản lý gây nên hoặc làm trầm trọng thêm hầu hết các căn bệnh trầm
kha đã ra sức tàn phá giáo dục (3).
Chúng ta nói nhiều đến bệnh giả dối, gian trá, thành tích ảo, v.v. nhưng
làm sao chống được các bệnh ấy để có một nền giáo dục trung thực, lành mạnh,
nói chi đến hiện đại, nếu cái nguyên nhân gây ra các bệnh ấy nằm ngay trong cơ
chế, nói cách khác nằm ngay trong khuyết tật hệ thống của giáo dục ?
Sự thật, nhờ xoay xở đủ mọi cách hợp pháp hay không hợp pháp, hợp
lý hay trái với lương tâm, phần lớn nhà giáo, nhất là quan chức giáo dục, nay
đã có mức sống không đến nỗi quá tệ, thậm chí một bộ phận nhỏ còn có thu nhập
khá. Song cái giá phải trả thật quá đắt. Những giải pháp chữa cháy gần đây theo
kiểu “kế hoạch 3” hồi những năm 80 thế kỷ trước, hay cho phép nhiều cơ sở giáo
dục vượt rào để xử lý từng trường hợp riêng lẻ về lâu dài rất nguy hiểm,
chỉ gây thêm rối loạn, dẫn đến bất công và tiêu cực ngày càng tệ hại hơn.
Điều không may là giải quyết vấn đề cốt tử này cực kỳ khó vì căn
bệnh từ lâu đã thành một thứ ung thư của cả xã hội, chứ không riêng gì của giáo
dục, lại gắn liền chặt chẽ với quốc nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng
chóng mặt. Trước mắt chưa thể hy vọng có thể chữa trị nhanh chóng cái ung
thư này, cho nên giáo dục phải tìm mọi cách tự cứu lấy mình trong phạm vi có
thể, may ra còn nêu gương cho các ngành khác để tiến dần đến một giải pháp
chung. Theo tính toán của nhiều chuyên gia, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng dù
trong phạm vi cả nước còn khó khăn thì ngay trong nội bộ ngành giáo dục, vẫn có
thể rà soát lại cơ chế tài chính, kiên quyết bỏ hay giảm bớt mọi khoản
chi tiêu không hiệu quả, trên cơ sở đó tăng lương, bảo đảm lương đủ sống và dần
dần trở thành thu nhập chính của mỗi người, từ đó lập lại kỷ cương, đạo đức
trong giáo dục.
Trong một xã hội mà đời sống kinh tế bị thao túng nặng nề bởi các
“nhóm lợi ích”, ai cũng thấy đây là việc vô cùng khó, tuy khả thi về điều kiện
vật chất khách quan nhưng chắc chắn sẽ vấp trở ngại cực kỳ lớn. Biết thế, song
giáo dục là lĩnh vực cần bảo vệ trong sạch nhất, nếu không cương quyết làm bây
giờ mà cứ trì hoãn mãi thì sẽ ngày càng khó hơn và sẽ chẳng bao giờ có hy vọng
trả lại lòng tự trọng cho giáo dục, chẳng bao giờ xây dựng được một nền giáo
dục lành mạnh, trung thực, hiện đại.
2. Cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục phổ
thông và dạy nghề
Hệ thống giáo dục THPT hiện tại có hai lãng phí lớn.
Lãng phí thứ nhất là hàng năm có một số lớn thanh niên tốt nghiệp
THPT không qua lọt cánh cửa ĐH, CĐ, phải bước vào thị trường lao động, chịu
bằng lòng với một việc làm đơn giản (không cần tay nghề), dù đã tốn 12 năm đèn
sách, hoặc phải chấp nhận vào học nghề ở một trường trung cấp kỹ thuật vốn chỉ
đòi hỏi trình độ THCS. Trong khi đó vì thiếu công nhân lành ghề và kỹ thuật
viên thông thạo nên công nghiệp phụ trợ không phát triển nổi, sau mấy thập kỷ
xây dựng công nghiệp mà cuối cùng chỉ có lắp ráp, xuất khẩu tài nguyên
thô, thì làm sao giàu được. Tình trạng lãng phí đó vừa thiệt hại cho xã hội vừa
tạo mầm mống bất ổn trong thanh niên.
Lãng phí lớn thứ hai, khó thấy hơn, nhưng nghiêm trọng hơn, là cách
học và thi quá lạc hậu ở THPT gắn liền với thói hư học cổ lỗ, hoàn toàn không
chú ý các đặc điểm và đòi hỏi của lứa tuổi, làm phí sức học sinh một cách vô
ích, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tâm lý, đến tương lai nghề nghiệp của một
số khá đông, lại rất tốn kém cho gia đình và xã hội. Trẻ em ta học hết 12 năm
THPT thì mệt nhoài, lên đại học và trên nữa thường mau đuối sức khi đua tranh
với bạn bè các nước mà ở đó tuổi thiếu niên vừa được học vừa được chơi, chơi mà
học, để dành sức sau này có thể tiến lên xa vào những giai đoạn quyết định của
cuộc đời.
Để khắc phục những bất hợp lý trên cần cải tổ hệ thống giáo dục để
sau THCS có hai nhánh rẽ: một số lớn học sinh (khoảng 2/3) sẽ vào trung học
hướng nghiệp, chỉ 1/3 vào trung học phổ thông. Học xong trung học hướng nghiệp
có thể đi ngay vào thị trường lao động tìm một việc làm có nghề nhưng nếu muốn
cũng có thể học lên cao hơn (cao đẳng hay đại học) vì chương trình học, ngoài
phần hướng nghiệp, vẫn bảo đảm phần văn hoá cơ bản cần thiết. Còn trung học phổ
thông có nhiệm vụ chủ yếu chuẩn bị đầu vào cho đại học. Theo hướng đó cần phát
triển mạnh trung học hướng nghiệp, đồng thời cấu trúc lại chương trình và cách
học ở trung học phổ thông cho phù hợp với nhiệm vụ của cấp học này. Cụ
thể là bãi bỏ cách phân ban bất cập hiện nay để tổ chức lại việc học như ở
nhiều nước tiên tiến, về mỗi môn học đều có một chương trình bình thường và một
hoặc nhiều chương trình nâng cao, theo nhiều mức độ nâng cao khác nhau, cho
phép học sinh được tự do lựa chọn chương trình nào hợp sức và hợp sở thích,
đồng thời dễ dàng điều chỉnh sự lựa chọn khi thấy cần thiết. Với cách học đó
học sinh cả trung học hướng nghiệp và trung học phổ thông đều không bị quá tải,
vì được học sâu những môn ưa thích và không phải học quá kỹ nhiều thứ mà sau
này sẽ chẳng bao giờ cần đến. Đó mới là cách thực tế và hiệu quả giảm tải ở cấp
học phổ thông, chứ không phải như hiện nay, chương trình bị kẹt giữa hai yêu
cầu mâu thuẫn: vừa giảm tải vừa không hạ thấp chất lượng. Hơn nữa về
những môn hợp với xu hướng sở thích thì học sinh có cơ hội được học đủ
sâu để đến khi tốt nghiệp có đủ hiểu biết tìm được việc làm có nghề, và
nếu xuất sắc thì khi học tiếp lên ĐH hay CĐ có thể học vượt lớp, tiết kiệm thời
gian. Như thế tránh được nhiều sự lãng phí cho cả xã hội lẫn cho từng cá nhân
học sinh. Tuổi 15-18 là tuổi vàng, nhiệm vụ của nhà trường là tạo điều kiện cho
mỗi cá nhân phát triển đến mức tối đa của mình, chứ không phải chỉ nhằm bảo đảm
cho mọi cá nhân môt mức tối thiểu đồng loạt như cách dạy hiên nay ở THPT (4).
3. Thay đổi căn bản cung cách học và thi, xoá
bỏ thi cử nặng nề, tốn kém mà kém hiệu quả
Đồng thời với cải tổ hệ thống giáo dục, thì cách học, cách thi cử
và đánh giá cũng phải thay đổi tận gốc. Đặc biệt cần đổi mới căn bản tư duy thi
tốt nghiệp và tuyển sinh. Trong một nhà máy làm ra một sản phẩm gồm nhiều bộ
phận riêng rẽ (môđun) ghép lắp lại, người ta phải kiểm tra kỹ chất lượng khi
sản xuất từng bộ phận, đến khi lắp ráp chỉ kiểm tra chất lượng lắp ráp. Việc
học và thi trong nhà trường cũng vậy: mỗi môn, mỗi học phần như một môđun, học
môn nào, học phần nào phải kiểm tra, thi nghiêm túc ngay môn đó, phần đó, đến
cuối cấp không thi lại từng môn, từng học phần nữa, mà chỉ phải làm một tiểu luận
hoặc qua một kỳ thi nhẹ nhàng, với mục đích chủ yếu kiểm tra trình độ văn hóa
phổ quát (giống như kiểm tra chất lượng lắp ráp các môđun trong nhà máy). Hơn
nữa, kỳ thi nhẹ nhàng này cũng có thể không bắt buộc cho mọi người mà có thể
coi như một kỳ thi sơ tuyển (ST) vào ĐH, CĐ chỉ bắt buộc đối với những ai muốn
vào học ĐH, CĐ. Còn việc tuyển sinh vào ĐH, CĐ thì cần trả lại cho từng
trường. Mỗi trường tuyển sinh căn cứ vào kết quả thi (ST) và học bạ hoặc qua
một kỳ thi tuyển nếu trường nào có yêu cầu đào tạo đặc biệt (4).
Cách học và thi như thế khác hẳn cách học và thi hiện nay là dồn
tất cả sự kiểm tra vào cuối cấp trong một kỳ thi tốt nghiệp mà nhiều người cho
là thi vờ vì chỉ để loại vài phần trăm thí sinh, là những em quá kém không cần
thi cũng có thể loại được theo học bạ. Có ý kiến cho rằng tuy thi vờ
nhưng là cần thiết vì tâm lý học sinh là có thi thì mới học tử tế(5). Té ra là vậy: đất nước còn rất nghèo mà
phải tốn kém hàng chục nghìn tỉ mỗi năm tổ chức thi chỉ để dọa và gây áp lực
buộc học sinh phải học. Cùng một luồng ý kiến đó nhiều quan chức giáo dục cho
rằng trong điều kiện hiện thời, thầy cô giáo chịu quá nhiều áp lực không lành
mạnh từ phía xã hội nên rất khó bảo đảm việc học và thi nghiêm túc từng môn,
từng học kỳ, ở từng lớp, từng địa phương được. Cho nên không còn cách nào khác
là phải thi tôt nghiệp, dù chỉ là thi vờ. Nói thế khác nào bảo một nền
giáo dục trung thưc là ngoài tầm với của xã hội ta hiện nay – thật lạ lùng và
xót xa, vì một nền giáo dục trung thực đâu có gì quá khó, nó đã từng có ở cả
hai Miền Bắc và Nam suôt từ 1945 đến 1975.
Một ý kiến xác đáng hơn là quy một phần nguyên nhân phát triển gian
trá trong thi cử là do chương trình quá nặng, mà thi tốt nghiệp lại quá căng
thẳng: thi viết gần hết các môn trong thời gian chỉ mấy ngày, tiềm ẩn rủi ro
học tài thi phận, khiến một số học sinh dễ nảy ra tư tưởng đối phó bằng thủ
đoạn gian dối, cầu cứu đến cả sự giúp sức của phụ huynh và thầy cô giáo. Đúng
là chương trình quá tải cũng là một vấn đề, nhưng không thể giảm tải theo kiểu
cắt giảm lung tung như chúng ta đã làm lâu nay mà chủ yếu phải cải tổ cả hệ
thống giáo dục phổ thông như đã trình bày ở trên, chấm dứt cách giáo dục đồng
loạt, quá nặng với số đông lại quá nhẹ với số có khả năng. Đông thời để bảo đảm
tính trung thực, trước hết phải thực hiện kiểm tra, thi học kỳ nghiêm túc,
nghĩa là trung thực, ngay từ những lớp nhỏ nhất chứ không đợi đến cuối cấp. Khi
đó mới có thể thi tốt nghiệp nhẹ nhàng, chỉ cốt để kiểm tra chất lượng tổng
hợp, tức là trình độ văn hóa phổ quát, hoặc thậm chí chỉ xét kết quả học tập
theo học bạ để cho tốt nghiệp mà không phải thi.
Điều quan trọng ít người chú ý là lối thi tôt nghiệp và tuyển sinh
như hiện nay tạo ra áp lực tâm lý và tinh thần rất lớn, đặt thí sinh trước
những thử thách vượt quá khả năng chịu đựng của các em. Trong một xã hội mà
xung quanh quá nhiều dối trá, rất hiếm trung thực, nếu đặt thiếu niên trước
những thử thách trung thực quá sức thì cũng chẳng khác nào đưa trẻ ra phơi
nhiễm giữa một vùng đang dịch bệnh, làm sao trẻ tránh không bị nhiễm. Cho nên
chẳng lạ gì kỳ thi nào cũng có chuyện quay cóp, gian dối, mà những chuyện đã bị
phanh phui chỉ là phần nổi của tảng băng. Cuộc sống đã dạy chúng ta quá đủ rằng
cách học và thi như hiện nay chẳng những gây lãng phí lớn về công sức, tiền của,
thời gian, mà còn khuyến khích phát triển sự dối trá, thói đạo đức giả, là
những thứ hư hỏng cần tránh trước hết trong nhà trường.
4. Chuyển mạnh giáo dục đại học theo hướng
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế về cả nội dung, phương pháp và tổ chức quản lý
Chỉ nhìn qua hệ thống đại học VN hiện nay cũng đã thấy cảnh tượng
lộn xộn, rất khác mọi nơi trên thế giới: trường nào, kiểu gì, cũng gọi là đại
học, trong một đại học lại có thể có nhiều đại học thành viên, dịch ra tiếng
Anh tất cả đều là university, không phân biệt university với school, ai muốn
hiểu ra sao thì hiểu (6). Đành rằng đây chỉ là vấn đề tên gọi, nhưng nó
cũng phản ảnh một nét riêng “không giống ai” của đại học VN. Đi sâu hơn vào
hoạt động cụ thể của đại học càng thấy rõ sự tụt hậu bắt nguồn từ lối suy
nghĩ chủ quan tự cho mình có thể tự biên tự diễn, bất chấp thông lệ và chuẩn
mực quốc tế. Cho nên muốn hội nhập quốc tế thành công, tiến lên một nền đại học
thật sự hiện đại, trước hết phải từ bỏ lối nghĩ đó, khiêm tốn học hỏi, tuân thủ
các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, điều gì muốn làm khác thì cần suy nghĩ cẩn
trọng và có lý do thật xác đáng.
Chúng ta đang rớt lại sau
đuôi thiên hạ, tại sao cứ muốn làm độc đáo, khác người để mãi mãi thất bại ?
Ngay đến một nước có truyền thống khoa học, giáo dục lâu đời như
Pháp mà cách đây 30 năm khi đánh giá nền đại học lúc ấy của họ nhà khoa học lỗi
lạc Pháp L. Schwartz cũng đã từng lên tiếng: “nếu Pháp là nước duy nhất
trên thế giới còn muốn giữ lại mãi một số quan niệm cũ về giáo dục đại học thì
hoặc chúng ta đúng và nền đại học của ta phải là tiên tiến và được ngưỡng mộ
nhất thế giới – điều rõ ràng không phải vậy – hoặc chúng ta sai và cần phải
thay đổi.” Cho hay yêu cầu cùng đi con đường chung với cả thế giới không phải
chỉ đặt ra cho các nước kém phát triển.
Cái khó là trước đây hệ thống giáo dục đại học của ta phỏng theo mô
hình giáo dục đại học Liên Xô cũ. Đến khi nhận rõ mô hình đó không còn thích
hợp mà phải thay đổi theo yêu cẩu mới của công cuộc phát triển đất nước,
ta lại không có những nhà quản lý đủ hiểu biết chuyên nghiệp cần thiết và nắm
vững tính hệ thống nên cứ thay đổi nham nhở, chắp vá, cuối cùng biến giáo dục
đại học thành một hệ thống đầu Ngô mình Sở, chẳng giống ai cả. Đã thế mà từ
2006 lại mạo hiểm lao theo chiến lược tân tự do trong phát triển giáo
dục, cổ suý giáo dục là hàng hóa, phát triển mạnh trường tư vị lợi, cổ phần hóa
đại học công, v.v. (7)
Trong khi đó, mọi vấn đề từ chế độ tiền lương, chính sách sử dụng
tài năng, từ việc đào tạo sau cử nhân, phương thức đào tạo liên ngành, cho đến
tuyển dụng, bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư, bảo đảm tự chủ đại học, xây dựng môi
trường nghiên cứu khoa học, tự do học thuật, tất cả đều ở trạng thái cổ hủ, lạc
hậu. Chẳng khác nào đường sá thì lầy lội gồ ghề, đầy ổ trâu ổ gà, lại chủ
trương nhập xe hơi xịn phóng nhanh cho oai. Chính cái tâm lý chưa biết đi
đã đòi chạy, cái lối học kinh nghiệm thế giới theo kiểu thầy bói sờ voi đó là
nguồn gốc tất cả những yếu kém, khó khăn của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam dù
đã tốn không ít công sức xây dựng qua mấy thập kỷ.
Công bằng mà nói, từ vài năm lại đây, sau nhiều bài học thất bại,
nhận thức cũng đã có ít nhiều thay đổi, nhờ đó đã có những cố gắng tich cực
hướng tới hội nhập quốc tế. Tuy nhiên kết quả còn rất hạn chế, do sức ỳ quán
tính của bộ máy quản lý còn nặng, do tư duy vẫn luẩn quẩn trong những giáo điều
dai dẳng và những ràng buộc thể chế ngặt nghèo. Rõ nhất là về mục tiêu, sứ mạng
đại học, về phương thức đào tạo, về quyền tự chủ đại học và tự do học thuật,
nghĩa là về các vấn đề then chốt nhất của đại học hiện đại, quan niệm chung của
chúng ta còn rất mơ hồ, lệch lạc, có mặt lạc hậu nửa thế kỷ.
Cho nên thách thức lớn nhất của giáo dục hiện nay là hiện đại hóa
đại học, đưa đại học hội nhập thật sự vào con đường phát triển chung của thế
giới. Hãy dứt khoát rủ bỏ những gì lạc hậu, trì trệ còn níu kéo chúng ta để
chuyển mạnh theo mô hình giáo dục đại học Hoa Kỳ là mô hình được thừa nhận tiên
tiến và đang được áp dụng phổ biến trên thế giới. Có thể nói thành bại của cuộc
cải cách giáo dục một phần quyết định tùy thuộc tiến trình hiện đại hóa đại học
này.
III. Lộ trình và tổ chức thực hiện
Cải cách giáo dục cần phải được thực hiện kiên quyết, khẩn trương,
nhưng không vội vã. Sau khi Trung Ương và Quốc Hội thảo luận và thông qua
đề cương cải cách nêu lên phương hướng chính cùng với những khâu mấu chốt cần
giải quyết trong cải cách, thì
cần thành lập Ủy Ban Quốc Gia Chỉ Đạo Cải Cách Giáo Dục, bao gồm
những người có năng lực và có tâm huyết, vừa có tầm nhìn vừa thật sự quan tâm,
lo lắng cho giáo dục. Ủy ban này sẽ vạch ra lộ trình và kế hoạch thực
hiện cụ thể để có thể hoàn tất công cuộc cải cách sau khoảng một thập kỷ.
Trước mắt để thực hiện được cải cách ở những khâu cấp bách phải tổ
chức nghiên cứu những vấn đề cụ thể như chương trình và sách giáo khoa cho
các cấp phổ thông, phương pháp giảng dạy ở các cấp, đổi mới thi cử, v.v. theo
quan điểm tư duy mới. Biết rằng trong hiện tình đất nước có vô vàn khó khăn,
nhưng đây cũng là thời cơ để giáo dục có thể lột xác, từ một kiểu giáo dục nặng
tính giáo điều, lạc hậu và lạc điệu với thời đại và thế giới, tiến lên một nền
giáo dục khai sáng, lành mạnh, trung thực, hiện đại, phù hợp xu thế tiến hóa
chung của nhân loại và đáp ứng lợi ích tối cao của đất nước.
———-
Chú thích:
Chú thích:
1 : Một trong những nguyên lý bất khả tranh
luận chỉ đạo nền giáo dục trước đây một thời là giáo dục phải tuyệt đối
phục tùng chính trị, trong nhà trường chính trị là thống soái, trong hai vế
“hồng” và “chuyên” thì “hồng” là tiên quyết. Mặc dù qua cọ xát thực tế nguyên
lý ấy đã buộc phải nới lỏng nhiều, nhưng nó vẫn còn ảnh hưởng đậm nét trong
nhiều khâu quan trọng về nội dung, phương pháp giáo dục, về rèn luyện đạo đức,
về cách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, cất nhắc cán bộ.
2 : Do Dubcek, nhà lãnh dạo Tiệp Khắc khi ấy,
khởi xướng. Ông này sau đó đã bị lật đổ trong một cuộc can thiệp quân sự mạnh
mẽ của Liên Xô mà hồi ấy cả khối xã hội chủ nghĩa đều ủng hộ.
3 : Cái phần thu nhập thêm ngoài lương đó thật
ra cũng từ ngân sách hoặc từ đóng góp của người học, nhưng bắt buộc nhà giáo
phải mất sức làm thêm nhiêu việc không hợp lý (chủ yếu là dạy thêm, dưới nhiều
hình thức). Thành ra thay vì trả lương đủ một cách đương hoàng thì người
ta chia lương ra thành hai phần: một phần nhỏ, goi là lương chính
thức, quy định chặt chẽ, còn phần kia (cũng từ ngân sách hoặc đóng góp của
dân) thì tùy thuộc sự xoay xở của mỗi người – chức càng cao khả năng và
phạm vi xoay xở càng lớn.
4 : Gần đây có nhiều ý kiến đề nghị rút thời
gian trường phổ thông xuống còn 11 năm. Theo tôi điều này chỉ đặt ra với trường
phổ thông được quan niệm như hiện nay là học thẳng một mạch, tôt nghiệp thì ra
đời hoặc học lên đại học. Với trường phổ thông quan niệm như vậy sẽ không tránh
khỏi hai bất cập lớn của trường phổ thông hiện nay như trên đã phân tích (chỉ
có khác là 11 năm thay vì 12 năm). Còn để có học vấn phổ thông phổ cập
khi ra đời thì chỉ cần 9 năm THCS như đề nghị của chúng tôi là đủ, sau đó hoặc
học trung học hướng nghiệp, hoăc trung học phổ thông để chuẩn bị đầu vào đại
học.
5: Để biện minh chủ trương duy trì thi tốt
nghiệp THPT một số quan chức giáo dục thường viện lẽ trên thế giới bất cứ nước
nào cũng có thi tốt nghiệp. Đây là thông tin sai, nhất là nếu hiểu thi tôt
nghiệp là thi theo kiểu ta. Nhân đây tôi nhớ lại khi bàn về phân ban ở THPT
trước đây 8 năm một số người muốn bênh vực cách phân ban cứng nhắc của ta
thường viện dẫn lý do phần lớn các nước trên thế giới đều làm như vậy, thậm chí
còn dẫn ra ở Thụy Điển THPT có đến cả vài chục ban. Hỏi ra mới biết đó là do
hiểu sai cách tổ chức học ở THPT Thụy Điển và nhiều nước khác.
6 : Trươc kia ở Miền Bắc, theo mô hình Liên Xô
và các nước Đông Âu, chỉ Đại học Tổng hợp mới dịch là University, cho nên Hanoi
University là dịch tên Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nay có Đại Học Hà Nội mới mở,
cũng gọi là Hanoi
University nhưng hoàn
toàn không liên quan với Đại học Tổng hợp xưa. Thật là rối.
7: Một nét khác biệt, không giống ai cả, của đại học công lập VN là bên cạnh hệ
chính quy, còn có hệ “ngoài ngân sách”, học phí cao của sinh viên hệ
này dùng để tăng thu nhập cho thầy dạy, bù vào lương chính thức quá thấp.
Đây thực chất không khác gì một loại trường tư trá hình, ghép vào trường
công để sử dụng phương tiện của trường công. Nếu kể càc hệ này là ngoài công
lập thì thật ra tỉ lệ sinh viên ngoài công lập ở VN phải đến 60-70% chứ không
ít hơn, Ở nhiều nơi số sinh viên tuyển vào hệ này xấp xỉ số sinh viên
chính quy, tạo ra một nguồn thu nhập khá cho thầy dạy, với cái giá phải
trả là tăng gấp đôi hoặc hơn số giờ dạy cho các thầy, vừa hạ thấp chất lượng
đào tạo ngay trước mắt, vừa khiến cho thầy dạy không còn thì giờ nghiên cứu
khoa học hoặc học thêm nâng cao trình độ. Số này sau một số năm như vậy, nếu có
được cử đi du học thì sức bật cũng không còn nhiều, còn nếu cứ tiếp tục ở lại
trường thì ngày càng đuối sức so với yêu cầu, không theo kịp được đà tiến nhanh
của khoa học, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng về lâu dài.
(Nguồn: Tia Sáng)