Tấn Tài : Vị hoàng đế có
giọng ca liêu trai
LÊ PHƯỚC
Sân khấu cải lương thời
hoàng kim đã tạo nên một phong trào “trăm hoa đua nở” với sự thành danh của nhiều
nghệ sĩ bậc thầy. Cái đặc sắc nhất của
các nghệ sĩ thuộc thế hệ này, là dù tất cả đều hay, đều nổi tiếng, đều được
khán giả ái mộ, nhưng lạ thay, từ giọng ca đến phong cách biểu diễn, không ai
trùng lắp với ai.
Đặc biệt là giọng ca, khi nghệ sĩ vừa cất giọng, dù chưa
nhìn thấy mặt, thì người mộ điệu cũng lập tức biết ngay đó là giọng ca của nghệ
sĩ nào. Trong những giọng ca đặc sắc đó có giọng ca liêu trai của “Hoàng đế đĩa
nhựa” Tấn Tài. Với giọng ca ngọt nhẹ và kiểu nhấn nhá rất đặc trưng, giọng ca Tấn
Tài đã tạo được một trường phái ca cổ riêng trong làng sân khấu cải lương. Đến
giờ phút này, giọng ca và lối ca của Tấn Tài vẫn thuộc hàng "độc bộ thiên
hạ".
Nhà giáo
mê nghiệp cầm ca
Nhắc đến Tấn Tài,
trước tiên là nhắc đến một người có tâm hồn yêu cải lương tha thiết, đến mức mà
bỏ cả nghề giáo để theo nghiệp cầm ca. Nghệ sĩ Tấn Tài tên thật là Lê Tấn Tài,
sinh năm 1938 tại xã Vĩnh Trạch, huyện Núi Sập, tỉnh An Giang. Cha mẹ ông làm
nghề buôn bán. Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp ở An Giang, ông ra làm thầy
giáo dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu. Khi ấy, ông thường xuyên tham gia đờn ca
tài tử. Sân chơi tài tử ấy đã làm cho ngọn lửa yêu cải lương ngày càng bùng lên
dữ dội trong lòng nhà giáo trẻ. Thế là vào năm 1959, ông khăn gói lên Sài Gòn
theo gánh hát. Gia đình đã nhiều lần đến bắt ông về, nhưng ông vẫn quyết chí
theo đuổi nghiệp cải lương.
Trong xã hội Việt
Nam
lúc bấy giờ, cái nghề ca hát dù được nổi danh, dù kiếm được nhiều tiền, nhưng vẫn
còn phải hứng chịu cái quan niệm cổ hủ “Xướng ca vô loài”. Trong khi đó, thì từ
bao đời nay, nhà giáo luôn được xã hội quí trọng dù nghèo khổ về bề vật chất.
Thế mới thấy quyết định bỏ nghề giáo theo nghiệp cầm ca của Tấn Tài quả là một
quyết định táo bạo, cho thấy cái lòng yêu cải lương của Tấn Tài mới mãnh liệt
làm sao! Chẳng bao lâu khi rời quê lên Sài Gòn, nhà giáo trẻ ngày nào đã trở
thành anh kép chánh Tấn Tài, được các đoàn cải lương và các hãng đĩa lớn săn
đón, được khán giả mến mộ.
Anh kép
không biết kén đào
Nghệ thuật cải lương
có một điều kì diệu, đó là “cái duyên sân khấu”. Trong nghề hát ca, không phải
nghệ sĩ tài năng nào cũng được nổi tiếng, cũng được mến mộ. Sự yêu ghét của
khán giả dành cho một nghệ sĩ thật không thể lí giải được theo lô gích thông thường,
mà khi một nghệ sĩ được thành công, tức được khán giả yêu mến thì người ta cho
rằng nghệ sĩ đó “có duyên sân khấu” và “được tổ đãi”. Trên thực tế, có nhiều trường
hợp nghệ sĩ có tài có sắc thật sự, nhưng rốt cuộc lại không được nổi danh bằng
chị bằng em, đành phải chấp nhận số phận và tự nhủ là “tổ nghiệp không thương”,
tức thiếu “cái duyên sân khấu”.
Bên cạnh đó, “cái
duyên sân khấu” còn có thể được hiểu là “cái duyên đóng cặp” của một đôi nghệ
sĩ trên sân khấu. Không phải đào kép nào đóng cặp cũng được khán giả đón nhận.
Có khi cả đào lẫn kép đều là nghệ sĩ tài năng, nổi tiếng, nhưng “không có duyên
diễn chung”, cho nên dù cố gắng đóng cặp cũng không tạo được dấu ấn trong lòng
khán giả.
Về vấn đề này, có
lẽ Tấn Tài là một trường hợp ngoại lệ bởi ông được mệnh danh là “Kép không kén
vai nữ”. Năm 1964, Tấn Tài là kép chánh của đoàn Dạ Lý Hương bên cạnh Cải lương
chi bảo Bạch Tuyết. Có thể nói đây là một trong những đôi bạn diễn thành công
nhất của sân khấu cải lương, từ sự tương đồng về giọng ca, cách nhả chữ, đến
nghệ thuật biểu diễn điêu luyện. Ngoài Bạch Tuyết, Tấn Tài còn đóng cặp thành
công với nhiều nữ diễn viên cải lương gạo cội khác như Út Bạch Lan, Thanh Nga,
Lệ Thủy, Ngọc Giàu, Mộng Tuyền, Mỹ Châu…
Không chỉ thành
công trong các vở tuồng xã hội, mà Tấn Tài còn để đời với nhiều vai diễn kiếp
hiệp đặc sắc. Có lẽ do xuất thân nhà giáo, nên cái nét chững chạc cũng đeo bám
anh trên sân khấu. Tấn Tài có một lối diễn đơn giản mà chững chạc, diễn mà như
không diễn, không quá ồn ào cũng không quá trầm lặng. Nói chung, anh diễn rất
tiết độ với biểu hiện vừa đủ cho tâm trạng nhân vật. Cách diễn này tưởng dễ mà
quá ra lại rất khó, bởi nó đòi hỏi người nghệ sĩ không được ỷ lại vào tài năng
để hát cương, mà phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhân vật để điều tiết cách ca diễn
cho vừa đủ. Lối diễn này có vẻ đang thiếu ở thế hệ nghệ sĩ cải lương hiện tại,
bởi có người thì không chịu nhập vai nên cái tính “giả bộ”, cái tính “đóng cải
lương” lộ rõ trên sân khấu, có người nhập vai nhưng lại thể hiện thái quá tâm
lí nhân vật.
Trong vô số vở cải
lương có Tấn Tài tham gia biểu diễn, có lẽ Chuyện Tình An Lộc Sơn là vở diễn
minh chứng rõ ràng nhất cho đỉnh cao nghệ thuật ca diễn của Tấn Tài. Bên cạnh Nữ
hoàng sân khấu Thanh Nga trong vai Dương Quí Phi, Tấn Tài thể hiện vai An Lộc Sơn
một cách xuất thần, cả về diễn xuất lẫn kỹ thuật ca. An Lộc Sơn của Tấn Tài là
một vị võ tướng uy phong lẫm lẫm, nhưng khi yêu thì trở nên rất dịu dàng và yêu
say đắm. Tấn Tài đã tạo ra một An Lộc Sơn rất lịch lãm trong tình yêu, nhưng
cũng rất thiện chiến trên sa trường. Cách biểu diễn của Tấn Tài đã khiến cho người
xem không thấy rằng An Lộc Sơn yêu Dương Quí Phi một cách mù quáng đến mức phải
khởi binh tạo phản, mà là một An Lộc Sơn được khán giả cảm thông bởi vì đã sẵn
sàng đánh đổi tất cả nhằm bảo vệ tình yêu chân thật của mình. Đến hiện tại, vai
An Lộc Sơn của Tấn Tài vẫn chưa thấy có người thay thế xứng tầm.
Một giọng
hát liêu trai
Nhắc đến Tấn Tài
là nhắc đến một giọng ca “lạ”, và đến hiện tại giọng ca này vẫn thuộc loại “độc
bộ thiên hạ”. Xuất thân là nhà giáo, nên ông rất nghiêm túc trong mọi việc. Mỗi
nhân vật, mỗi lời ca ông đều tìm hiểu kỹ lưỡng, bởi thế ông biết nhấn nhá, luyến
láy đúng nơi đúng chỗ, biết chọn “vuốt” những từ cần thiết để khơi dậy xúc cảm
của khán giả.
Về mặt này, soạn
giả Viễn Châu - danh cầm Bảy Bá nhận định: “Tấn Tài xuất thân là một nhà giáo
nên cách ca và luyến láy của anh đầy tính văn học. Chính anh đã góp phần làm
sang trọng thêm bài vọng cổ. Về kỹ thuật ca, người trong nghề nói vui với nhau
rằng, Tấn Tài ca dường như muốn đùa giỡn với dàn đờn. Bởi người nghệ sĩ phải nắm
vững niêm luật, cách chơi mới dám đùa giỡn với nhịp. Nghe anh Tấn Tài ca cứ tưởng
anh sẽ bị rớt nhịp và dàn đờn sắp vớt anh, thế mà không bao giờ anh rớt. Nghe
anh ca vọng cổ vì thế mà sướng trong sự cảm nhận, bởi chất nam tính trầm hùng,
chất lãng mạn liêu trai như quyện chặt vào bài vọng cổ”.
Tấn Tài có một
làn hơi rất riêng khiến người nghe không thể nhầm lẫn với bất kì giọng ca nào
khác. Lối ca của Tấn Tài vừa ngọt, vừa cao, vừa nhẹ. Cái mà khán giả dễ nhận ra
nhất ở Tấn Tài đó chính là cách ông “nhấn kéo dài”những chữ mang dấu sắc nói
riêng và cách ông “vuốt” những chữ mang thanh trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng) nói
chung. Ông thả hơi cho những chữ này rất nhẹ và “mỏng như lá lúa”. Ví dụ như ba
tiếng “Thái Chân ơi” mà ông ca trong vở Chuyện tình An Lộc Sơn, ông ca thành
“Th…á…i....(thả hơi)…Chân ơi”. Tức thay vì ca liên tục ba chữ như những người
khác, Tấn Tài kéo dài chữ “Thái” và ca liên tục hai chữ còn lại. Khi ông kéo
dài, giữa chữ “Thái” và chữ “Chân” không đứt quãng hẳn, mà vẫn còn được kết nối
bằng một làn hơi thật mỏng, và chính cái làn hơi thật mỏng này là nét rất riêng
của Tấn Tài.
Hay như trong bài
vọng cổ Hận Kinh Kha, trong câu thơ nói lối: “Tân khách muôn người lệ chứa
chan”, Tấn Tài đã xử lí bằng cách ca kéo dài giữa hai chữ “chứa” và “chan”, khiến
cho giữa hai chữ này chỉ còn tồn tại một làn hơi thật mỏng, thật nhẹ, và thật độc
đáo. Hoặc như trong bài Bên rặng ô môi, đoạn vô vọng cổ câu một: “Bến nước năm
xưa chỉ còn cội đa già chơ vơ rũ bóng”, Tấn Tài cũng vuốt mỏng hai chữ “Bến…..nước”
thật ngọt ngào. Ngay cả trong lòng bản ca vọng cổ, Tấn tài cũng có cách vuốt rất
nhẹ, rất mỏng, có thể nói là một kiểu vuốt “đứt dây đờn”.
Làn hơi mỏng đó kết
hợp với giọng hát “nhẹ bổng” đã tạo thành một lối ca “rất mỏng” và “rất nhẹ”, mỏng
và nhẹ đến mức mà nó có thể len lỏi một cách dễ dàng vào tận cùng sâu thẳm con
tim người mộ điệu. Nghe Tấn Tài ca, ta không hề thấy người ca phải “ca ráng hơi”,
mà ta lại có cảm giác là ông ca rất nhẹ nhàng, bởi vậy người nghe cũng tìm được
cái cảm giác nhẹ nhàng, mới thật sự được “sướng cái lỗ tai”. Nghe Tấn Tài ca,
ta có cảm giác như tiếng ca đang văng vẳng từ xa nhưng lại rất gần ở đâu đó, thật
đúng là một giọng hát “liêu trai”.
Nhà giáo
làng lên ngôi “Hoàng Đế”
Hồi những thập
niên 60 của thế kỷ trước, giọng ca Tấn Tài đã làm khuynh đảo thị trường băng
đĩa cổ nhạc ở Sài Gòn, nhiều hãng đĩa lớn tranh nhau mời Tấn Tài thu âm. Được
biết, khi ấy mỗi ngày ông thu khoảng 5-6 bài, thù lao cho mỗi bài khi ấy tương
đương một lượng vàng. Chỉ tính từ năm 1962 đến 1975, ông đã thu âm khoảng 1 000
bài vọng cổ và chừng 500 trăm vở cải lương lớn nhỏ. Đó là một con số kỷ lục mà
cho đến nay chưa có nghệ sỹ nào vượt qua. Thành quả nghệ thuật đó cũng chính là
nguyên nhân để khán giả và báo giới Sài Gòn khi ấy phong tặng Tấn Tài danh hiệu
"Hoàng đế đĩa nhựa”.
Năm 1963, khi về
cộng tác với đoàn Thủ Đô, với vai Điệp Nhứt Lang trong vở Cát Dung Phương Tử của
soạn giả Thiếu Linh, Tấn Tài đoạt Huy chương vàng giải Thanh Tâm ( cùng năm với
các nghệ sỹ Diệp Lang, Thanh Tú, Bạch Tuyết, Mộng Tuyền và Trương Ánh Loan), một
giải thưởng danh giá nhất của sân khấu cải lương tính đến hiện tại. Năm 2011,
trên bầu trời nghệ thuật cải lương Nam Bộ, một trong những ngôi sao sáng nhất
đã vụt tắt khi nghệ sĩ Tấn Tài vĩnh biệt người mộ điệu ở tuổi 74.
Ông mất đi, nhưng
để lại cho đời nhiều vai diễn ấn tượng, đặc biệt là một giọng hát liêu trai “độc
nhất vô nhị”. Với tất cả những gì ông thể hiện trên sân khấu cải lương, nhất là
trong các bài vọng cổ, ta có thể mạnh dạn nói rằng, Tấn Tài là một trong những
giọng ca hàng đầu góp phần khẳng định rằng: “ca vọng cổ” không chỉ đơn giản là
“ca”, mà đó là cả “một nghệ thuật có tính hàn lâm”.
*********
Hận Kinh Kha
Tấn Tài
Hận Kinh Kha
Tấn Tài
***********