namsaubaysau
THẾ HỆ BÁNH MÌ KẸP !
********
Tôi ra đời giữa hai cuộc chiến, giữa một trăm năm đô-hộ giặc Tây và hai mươi năm nội-chiến từng ngày. Sau đó, tôi được đi du-học và tôi đã sống “vô tư lự” bên trời Âu sung-túc trong khi khói lửa vẫn ngập trời nơi quê nhà.
Giờ
đây, bom đạn đã ngừng tiếng nhưng một lần nữa, gia-đình tôi đã phải cuốn gói
rời bỏ quê-hương và mấy triệu người Việt-Nam bỗng nhiên phải sống tản mác trên
toàn thế-giới như những cây bị bật rễ, ở những chốn dung-thân như Mỹ,
Gia-Nã-Đại, Pháp, Úc…
Phần
mất mát vần còn đó, nguyên vẹn, ít ra đối với bố mẹ chúng tôi và chúng tôi,
thế-hệ đầu của những người di-dân. Một thế-hệ “nửa người, nửa ngợm, nửa đười
ươi”, lơ lửng giữa không-gian quê hương, chơi vơi giữa thời-gian thế-hệ, lạc
lõng trong tâm-tư văn hoá.
Một thế-hệ “bánh mì kẹp”.
Kẹp giữa hai quê-hương
Kẹp giữa hai quê-hương
Những người di-dân
này, ngày hôm nay mang sổ thông-hành Mỹ, Pháp, Úc… nhưng vẫn chỉ là Mỹ (Pháp,
Úc…) giấy, phần đông tiếng Mỹ (Pháp, Úc…) vẫn còn ba-xí ba-tú, miệng vẫn hôi
mùi nước mắm chứ không hôi hamburger hay camembert, vẫn không có bạn bè Mỹ
(Pháp, Úc…) mà chỉ sống quanh-quẩn với nhau, tụ-tập nơi những thương-xá, chợ
búa Á-Đông, hay rủ nhau “party”, ăn uống, karaoke với nhau.
Những người Mỹ (Pháp,
Úc…) gốc Việt này đã đi tìm một nơi nương-tựa để sống “tạm-bợ” nơi xứ người mà
trong thâm-tâm còn cố tưởng-tượng như mình đang sống ở quê nhà, và lúc nào có
dịp, có phương-tiện là lại vù về Việt-Nam, một số để “hưởng-thụ”, nhưng phần
lớn vẫn vì nhớ nhà.
Tôi không nhớ ai đã có nói:
“Ma patrie, c’est là où je suis heureux”
(Quê-hương tôi là nơi chốn nào tôi sống hạnh-phúc)
“Ma patrie, c’est là où je suis heureux”
(Quê-hương tôi là nơi chốn nào tôi sống hạnh-phúc)
Tôi muốn tin ông lắm,
tôi cũng muốn tự an-ủi mình lắm, nhưng tiếng gọi của cội-nguồn réo rắt lắm, ông
ơi. Tôi cứ ngỡ quê-hương là nơi chôn nhau, cắt rốn, là nguồn, là cội, là gốc,
là rễ cơ mà ?
Ở hải-ngoại,
đương-nhiên chúng tôi được tự-do, phần đông được ăn sung, mặc sướng, đủ tiền
mua nhà, chăm lo cho con cái ăn học, đi shopping hay du-ngoạn đây đó… Đời sống
này, nhiều đồng-bào ta nơi quê nhà mong mỏi có được, và tôi thừa hiểu chúng tôi
« hạnh phúc » hơn rất nhiều người lắm. Tôi không dám than thân, trách phận hay
phân-bì với ai cả, chẳng qua nơi đây, tôi chỉ nói lên tâm-sự u-uẩn những người
tha-hương chúng tôi mà thôi.
Nhất là trong
trường-hợp tôi, hiện đang mang hai quốc-tịch Pháp và Mỹ, sống bên Mỹ nhưng tim
vẫn còn « vọng Nam », tâm vẫn còn hướng về Pháp, đôi khi vẫn nhớ về khung trời
Bỉ Quốc. Những nơi tôi đã sống, làm sao tôi có thể xóa quên được ?
Quê-hương như người mẹ
đã bụng đau, dạ chửa cho tôi ra đời, nuôi-nấng, dậy-dỗ tôi nên người, và
quê-hương thứ hai, thứ ba là những bà mẹ đã mở rộng vòng tay, đón-nhận tôi khi
tôi không còn chỗ đứng dưới ánh mặt trời.
Ơn-nghĩa này, chúng
tôi không quên (từ ngày sang Mỹ, năm 1975, bố mẹ tôi năm nào cũng gửi chút quà
giáng-sinh cho gia-đình ông sĩ-quan Mỹ đã giúp nhà tôi sang Mỹ, và sau khi bố
tôi mất, mẹ tôi vẫn tiếp-tục gửi, mặc dù người ân-nhân này đã mấy lần đề-nghị
nên thôi gửi quà).
Tôi cảm quí những bà «
mẹ nuôi » lắm, tôi lại càng xót-thương Mẹ Việt-Nam, quê-hương đau-khổ. Ôi,
quê-hương tôi đâu ? Mỹ, Pháp, Úc… ? Hay vẫn là Việt-Nam muôn thuở ?
Kẹp giữa hai nền Văn-hoá
Ngày hôm nay, tôi đã lục-tuần nhưng tôi đã chỉ được sống ở quê nhà có mười tám năm. (Tôi đã mất mát quá nhiều rồi.)
Bao nhiêu năm tháng sống bên Pháp, bên Bỉ, đã rèn đúc tôi với một lối suy-luận, một cách ăn nói, một cách cư-xử xã-giao, một nền văn-hoá mà tôi hãnh-diện mang bên cạnh văn-hoá của mình, Qua bao năm tháng đó, tiếng Pháp đã dần-dà trở thành tiếng tôi thông-dụng nhất, ngay cả để diễn-tả những tâm-trạng sâu-thẳm nhất của mình.
Tuy nhiên, bao nhiêu
năm tháng đó chỉ có thể thấm vào cái vỏ bên ngoài, chỉ có thể thay đổi
hình-dạng và cử-chỉ của tôi, chỉ có thể tạo nơi tôi những sở-thích ăn mặc, đi
đứng, nói chuyện, chỉ có thể tạc lên cái “Tôi” bên ngoài.
Tất cả những năm tháng
đó không hề thay đổi nước da hay sắc tóc tôi (tóc tôi chỉ có thể bạc trắng với
thời-gian), không hề lay-chuyển âm-điệu tiếng mẹ đẻ của tôi, không hề làm
suy-sút kho-tàng văn-hoá tổ-tiên tôi hay nền giáo-dục bố mẹ tôi.
Nước Pháp đã ban thêm
cho tôi một nền văn-hoá, nhưng không hề thay-thế nền văn-hoá của tôi.
Nhưng có lẽ đó cũng là
nỗi khổ-tâm của tôi, nỗi khổ-tâm của những người di-dân trong thế-hệ đầu? Cây
cối làm sao sống thiếu gốc rễ? Con người ta làm sao sống thiếu cội nguồn? Làm
sao tôi có thể vui sướng bên ngoài khi bên trong trống vắng?
Tôi có thể thích pot-au-feu hay bouillabaisse
nhưng bao giờ tôi cũng vẫn thèm một tô phở đặc-biệt, tái-nạm-gầu-gân-sách-sụn.
Tôi có thể mê một chai Saint Emilion hay một
chai Volnay nhưng tôi vẫn nhớ hương-vị mấy chai la-ve “33” của “Brasseries et
Glacières d’Indochine” (BGI).
Tôi có thể viết tiếng Pháp giỏi hơn người Pháp
trung-bình, nhưng tim tôi bao giờ cũng rung-động khi tôi được đánh dấu hỏi, dấu
ngã.
Tôi có thể thích xem
phim “action” Mỹ hay nghe Claude Barzotti hát nhưng tôi vẫn thích xem phim bộ…
Đại-Hàn (Việt-Nam tôi làm gì có phim hay?), nhưng tôi vẫn thấy thấm-thía hơn
khi tôi nghe nhạc Việt, tôi vẫn truyền-cảm hơn khi hát tiếng Việt.
Tôi có thể ngoảnh lại nhìn một cô đầm tóc
vàng, mắt xanh nhưng tôi chỉ có thể hạnh-phúc với người đàn bà gọi tôi bằng
“Mình ơi!”.
Chỉ vì đó là văn-hoá dân-tộc nằm trong máu, trong xương-tủy tôi,
vì đó là giáo-dục bố mẹ, ông bà tôi đã truyền lại cho tôi, vì đó là vết-tích
của mấy ngàn năm lịch-sử.
Chỉ vì tôi là người Việt-Nam.
Kẹp giữa hai nền văn-hoá.
Chỉ vì tôi là người Việt-Nam.
Kẹp giữa hai nền văn-hoá.
Kẹp giữa hai thế-hệ
Bố mẹ chúng chúng tôi và chúng tôi cùng một làn sóng di-cư (cho dù trong số chúng tôi có những người đã đi trước) nhưng hai điều khổ-tâm cũng có điều khác-biệt.
Quả thật vậy, chúng tôi vẫn cùng một nền văn-hoá với bố mẹ, cùng một nền giáo-dục do cha ông truyền lại. Bố mẹ chúng tôi vẫn được sống với chúng tôi như lúc còn ở Việt-Nam, với nền-tảng Phật-Lão-Khổng, cùng một nhân-sinh quan, cùng một đạo làm người. Chúng tôi vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ, tiếp-tục yêu thương, kính-nể bố mẹ, để tiếp-tục lưu-truyền phong-tục, tập quán.
Bố mẹ chúng chúng tôi và chúng tôi cùng một làn sóng di-cư (cho dù trong số chúng tôi có những người đã đi trước) nhưng hai điều khổ-tâm cũng có điều khác-biệt.
Quả thật vậy, chúng tôi vẫn cùng một nền văn-hoá với bố mẹ, cùng một nền giáo-dục do cha ông truyền lại. Bố mẹ chúng tôi vẫn được sống với chúng tôi như lúc còn ở Việt-Nam, với nền-tảng Phật-Lão-Khổng, cùng một nhân-sinh quan, cùng một đạo làm người. Chúng tôi vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ, tiếp-tục yêu thương, kính-nể bố mẹ, để tiếp-tục lưu-truyền phong-tục, tập quán.
Trong khi chúng tôi giờ bắt-buộc phải chấp-nhận văn-hoá con cháu chúng tôi như một văn-hoá ít nhiều là ngoại-Việt.
Vì sự lưu-truyền đó sẽ
gián-đoạn từ đây. Con cái chúng tôi đã bắt-đầu nói một thứ tiếng khác và những
điều chúng tôi cố-gắng răn-dậy con cái khó lọt qua được màng-lưới thế-giới bên
ngoài.
Tôi đã được chứng-kiến
một cảnh-tượng mà tôi không bao giờ quên được. Hôm đó, một người bạn có tổ-chức
một buổi tiệc họp mặt với hơn sáu mươi bạn hữu để ăn uống, hát hò, nhẩy đầm.
Về khuya, chúng tôi
tạm ngưng chương-trình để ăn một bát cháo gà cho ấm bụng và lấy sức chơi tiếp.
Lúc đó, đứa con trai chủ nhà từ trên lầu đi xuống với mấy đứa bạn, bật máy
truyền-hình lên và nằm xem, ngay giữa sàn nhẩy. Chúng tôi đã bị “chiếm đất” và
đợi một lúc, không thấy tình-hình biến-chuyển, quan-khách lần-lượt xin kiếu-từ.
Tôi á-khẩu. Làm sao
tôi có thể tưởng-tượng được cảnh này, với nền giáo-dục của tôi? Hôm đó, tôi đã
chợt hiểu nền “độc-tài” của con trẻ trong cái quốc-gia tự-do nhất thế-giới này.
Nhưng điều tôi phân-vân nhất là trong tình-trạng đó, hai vị chủ nhà, nghĩa là
bố mẹ cậu trai trẻ đó, không hề lên tiếng can-thiệp, hầu như làm ngơ, không
nhìn thấy điều gì cả.
Trong khi tôi, đầu đã
bạc phơ mà mỗi lần sang thăm nhà, Mẹ bảo tôi cạo râu hay đi cắt tóc là tôi vui
vẻ làm ngay, chỉ để vâng lời Mẹ, để cho Mẹ vui. Ngược lại, bên Mỹ này, con gái
mới mười lăm tuổi đã đánh mắt, thoa son đi học, bố mẹ nói gì được khi trong
trường, bạn bè chung quanh đều như vậy, vả lại có thầy bà nào cấm cản đâu? Bên
này, con cháu đi xâm mình (tattoo) hay đục vòng sắt vào môi, vào mắt (piercing)
thì bố mẹ nào, ông bà nào ngăn cản được?
Nhà chúng tôi lúc
trước không giầu có gì nên không bao giờ dám phí-phạm bất cứ gì, ăn cơm phải
vét sạch từng hạt, trong khi con trẻ bên này lấy cho đầy đĩa nhưng không
ngần-ngại đổ tuốt nửa đĩa thức ăn khi chúng cảm thấy no.
Tôi đã tận mắt thấy
những bố mẹ phải khóc tức-tưởi khi bị lũ con xúm vào “mắng”. Ngày nay, bố mẹ
nào dám đánh con mà không sợ chúng nó gọi “911”?
“Trời làm một trận
lăng-nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông”. Ngày nay, thế-giới đảo lộn và
chúng tôi đi lộn đầu, để con cái trèo đầu, trèo cổ thôi.
Lúc trước còn ở bên
Pháp, tôi vẫn cố gắng mỗi năm lấy máy bay sang thăm bố mẹ, và giờ đây sống bên
Mỹ, tôi vẫn đi thăm Mẹ (vì không cùng tiểu bang) và ngoài ra, còn phải đi Pháp
thăm con.
Hoá ra, chúng tôi ở
trên thì lo cho bố mẹ, ở dưới thì lo cho con cái (ở bất cứ tuổi nào); ở trên
thì bị bố mẹ mắng, ở dưới thì bị con trách !?!
Kẹp giữa hai thế-hệ.
Xung-đột cả thế-hệ lẫn văn-hoá
Nói như vậy không phải
để trách mắng con cái. Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó không nói được
tiếng mẹ đẻ? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó sinh sống tại hải-ngoại? Đâu
phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó hoà mình với môi-trường bên ngoài nhiều hơn
là với môi-trường gia-đình (nhất là trong cái tuổi thành-niên này)?
Tôi đã có nghe những
đứa trẻ nói với bố mẹ: “Bố mẹ đừng trông mong chúng con trở thành người Việt.
Văn-hoá của bố mẹ không phải là văn-hoá của chúng con. Chúng con là người Mỹ!”
Phũ-phàng thay, đau lòng thay, nhưng chúng nó làm sao hiểu được văn-hoá chúng
ta khi chúng nó sống trong một thế-giới mà nền-tảng là “tự-do” và “đồng đô-la”?
Làm sao chúng nó có thể nghe lời bố mẹ trong khi sự-thật bên ngoài hầu như khác
hẳn?
Có lẽ chính chúng nó
có lý.
Bổn-phận cha mẹ là
giúp con cái thành công cuộc đời chúng nó chứ không phải cuộc đời cha mẹ, giúp
chúng nó thành-công ngoài đời, trong môi-trường chúng nó đang sống chứ không
phải môi-trường bố mẹ chúng đã sống. Sống ở đâu mà không theo văn-hoá nơi đó
thì chỉ có thất bại, mà đâu có cha mẹ nào muốn con mình thất-bại khi ra đời,
cho nên đành ngậm cay, nuốt đắng mà thôi.
Đây không phải chỉ là
vấn-đề xung-đột thế-hệ (thời-điểm nào chả có vấn-đề này, cho dù không “gây cấn”
như vậy), mà còn rắc-rối thêm vấn-đề xung-đột văn-hoá nữa. Làm sao bố mẹ và con
cái có thể hiểu nhau và chấp-nhận nhau khi đôi bên không cùng một nền-tảng,
cùng những đặc-quan, cùng một nhân-sinh-quan?
Nỗi buồn u-uẩn
Dĩ nhiên tôi không dám
vơ đũa cả nắm, không dám nói gia-đình Việt-Nam bên hải-ngoại nào cũng như trên,
nhưng có lẽ phần đông là như thế (?)
Nói lên vài điểm cho
dễ hiểu, nhưng vấn-đề không giản-dị như vậy và tôi không có khả-năng phân-tích
nhiều hơn.
Dù sao đi nữa, đây
cũng chỉ là nỗi buồn u-uẩn, ám ảnh tôi từ bao lâu nay, trong mối liên-hệ với
tâm-hồn, với văn-hoá, với gốc rễ của mình.
Tôi không tức-giận,
không chua chát. Tôi chỉ cảm thấy buồn, tôi không luyến-tiếc quá-khứ, chỉ là
tôi cảm thấy buồn.
Vướng mắc giữa hai
quê-hương, giữa hai nền văn-hoá, giữa hai thế-hệ, chúng tôi là một thế-hệ
"bánh mì kẹp” (đôi khi còn là “bánh bao” nữa). Ngoảnh nhìn lại chỉ còn
kỷ-niệm, nhìn về đàng trước thì tương-lai đã bít kín.
Nhưng thôi, đã biết là
mình vướng mắc, là mình “chấp ngã” (như lời Phật dậy) thì chỉ còn có nước “phá
chấp”, nghĩa là “buông”, là chấp-nhận.
Vả lại, cha mẹ chúng
tôi không có vấn-đề này, con cháu chúng tôi không có vấn-đề này, chỉ có chúng
tôi mới có vấn-đề này. Ngày nào cái thế-hệ chúng tôi đi hết rồi thì vấn-đề này
sẽ không còn ai bàn đến nữa.
Chúng tôi chỉ là một
giai-đoạn chuyển-tiếp, một thế-hệ bị mất mát, bị hy-sinh để dân-tộc di-dân
chúng tôi có thể lật qua một trang sử mới.
Để đời sau, con cháu
chúng tôi có hy-vọng thành-công trên đất người, đi tiếp con đường mà chúng tôi
đã không đi hết.
Được như vậy, chúng tôi cũng sẽ mãn-nguyện lắm rồi.
Xin cảm-ơn Trời Phật, xin cảm-ơn phúc-đức ông bà.
Tháng 3-2012
Yên Hà