Trả Tự Do cho Giáo Dục
https://www.facebook.com/notes/osin-huyduc/tr%E1%BA%A3-t%E1%BB%B1-do-cho-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c/702518876438010
Huy Đức
Thành lập và đứng đầu Ủy ban quốc gia đổi mới giáo dục là một
lựa chọn rất khôn ngoan của Thủ tướng. Nhưng, một nền giáo dục bị giam hãm qua
nhiều thập niên không thể thay đổi nếu công việc từ nay tới 2020 chỉ là
"xây dựng chương trình môn học và biên soạn các sách giáo khoa" như
Hội đồng giáo dục đưa ra hôm 25-2[1]. Biên soạn sách giáo khoa là công việc có
thể đảm đương bởi những tổ chức dân lập như "Cánh Buồm". Điều mà đất
nước cần ở một vị thủ tướng có tầm nhìn là ngay bây giờ phải "trả tự
do" cho Giáo dục.
Giáo Dục
Ngày nay, không ai có thể đặt quốc gia, dân tộc trong những
không gian riêng biệt. Một nền giáo dục có tương lai là một nền giáo dục tạo ra
được những giá trị có thể chia sẻ toàn cầu, chuẩn bị được một nguồn nhân lực
giàu tính nhân văn và khả năng sáng tạo.
Không thể cải cách giáo dục nếu chỉ nghĩ đến sự tồn vong của Chế
độ. Cũng không thể cải cách giáo dục nếu chỉ nghĩ đến sự hùng cường đơn lẻ của
một quốc gia. Không thể cải cách giáo dục, nếu không nghĩ đến việc chuẩn bị
những thế hệ người Việt có thể tìm chỗ đứng bên ngoài biên giới Việt.
Cải cách là để xây dựng một nền giáo dục mà những người làm
chính sách cũng có thể yên tâm để trao gửi con em chứ không phải là để trục lợi
rồi lặng lẽ đưa con cháu mình "tị nạn" bằng con đường du học.
Tách Bạch Hành Chính & Chính Sách
Không thể bắt đầu một chiến lược cải cách bằng việc xây dựng
"chương trình môn học và biên soạn các sách giáo khoa". Để tránh
những chính sách "sặc mùi ngân sách" và để đảm bảo khi duy trì một
thủ tục hành chánh nào đó (đăng ký, giấy phép...) là vì nó cần chứ không phải
vì sẽ thu được phong bì. Do vậy, trước hết, phải tách bạch chức năng hành pháp
chính trị và chức năng hành chính công vụ của ngành giáo dục.
Những người đã tham gia vào quy trình ban hành chính sách thì
không được dính líu tới lợi ích khi thi hành. Cha đẻ của các giấy phép thì
không bao giờ được nắm quyền cấp phép.
Thay vì tiêu tốn quá nhiều ngân sách và can thiệp vào mọi ngóc
ngách như hiện nay. Bộ Giáo dục chỉ cần giữ lại vai trò ban hành chính sách:
Chính sách khuyến khích khu vực tư tham gia đầu tư giáo dục; chính sách để môi
trường đại học thực sự sáng tạo, để nhà trường tự quyết và tự chịu trách nhiệm
với các sản phẩm giáo dục của mình...
Bộ có thể đưa ra các chuẩn giáo dục cho bậc phổ thông (học sinh
tiểu học, trung học cần được trang bị kiến thức toán, lý, hóa, địa lý, văn
chương và lịch sử ở chuẩn nào). Dựa trên những "chuẩn giáo dục" này,
các trung tâm khảo thí sẽ ra đề thi và các trường có điều kiện hoặc các trung
tâm nghiên cứu giáo dục sẽ viết sách giáo khoa. Thay vì, Bộ "ôm thầu"
từ việc viết sách cho đến in và kinh doanh sách.
Với những môn học như ngoại ngữ thì cách tốt nhất là mua (hoặc
xin) bản quyền giáo trình ngoại ngữ của nước ngoài. Phần nào họ viết không đúng
về Việt Nam thì chỉ cần cắt bỏ hay biên tập.
Bộ xây dựng quy chế để các trung tâm khảo thí ra đời. Những
trung tâm này có thể nhận chuyển giao công nghệ thi cử từ các quốc gia có nền
giáo dục thành công. Trung tâm khảo thí có thể do Bộ lập ra cũng có thể giao
cho tư nhân (thu phí từ các thí sinh). Có thể có vài, ba trung tâm, nơi nào có
uy tín, các trường đại học sẽ sử dụng kết quả thi nhiều hơn, thí sinh sẽ đăng
ký thi nhiều hơn.
Với mô hình này thì bộ máy "quản lý giáo dục" sẽ giảm
tới mức tối đa, các chức năng phân loại, đánh giá chất lượng trường, ngay cả
chức năng thanh tra giáo dục cũng có thể được tiến hành thông qua hiệp hội các
trường ở trong và ngoài nước.
Trả Các Cở Sở Giáo Dục cho Giáo Hội
Không nên coi đây là chính sách mới vì nó chỉ là một phần trong
chính sách "xã hội hóa giáo dục" mà "Đảng và Nhà nước" đã
chủ trương[2]. Năm 2005, Chính phủ đề ra các mục tiêu
tham vọng, tới năm 2010, tỉ lệ học sinh ngoài công lập phải đạt: Nhà trẻ 80%;
mẫu giáo 70%; trung học phổ thông 40%; trung học chuyên nghiệp 30%; các cơ sở
dạy nghề 60%; đại học, cao đẳng khoảng 40%.
Tuy nhiên, tới năm 2011, theo số liệu thống kê của Bộ, tỉ lệ học sinh ngoài công lập cao nhất (ở bậc mẫu giáo) cũng chỉ đạt 48,2%; thấp nhất (ở bậc trung học cơ sở) chỉ đạt 0,6%; bậc đại học chỉ có 13,2%; cao đẳng gần 20%. Không chỉ vì thủ tục hành chánh quan liêu, một trong những nguyên nhân khiến cho tỉ lệ "xã hội hóa" chưa cao là bởi các tôn giáo, nguồn lực tiềm năng nhất, chưa được tham gia đầu tư giáo dục (từ bậc phổ thông cơ sở).
Ở miền Nam trước ngày 30-4-1975, sở dĩ hệ thống công lập khá
mạnh là nhờ các trường tư thục đã gánh cho Chính phủ một phần quan trọng[3]. Phần lớn các trường tư thục là do các
hiệp hội, đặc biệt, các tôn giáo đầu tư[4]. Sau ngày 30-4-1975, Chế độ mới đã công
hữu hóa 1.087 trường tư, trong đó gồm tất cả trường học của Giáo hội công giáo
và các trường Bồ Đề của Giáo hội Phật giáo.
Một nhà nước pháp quyền không thể "bảo kê" cho một tôn
giáo nào, kể cả những tôn giáo đã đồng hành kể từ khi lập quốc. Không thể không
coi gần 6 triệu giáo dân đang sống ở Việt Nam (6,87%) là công dân. Có thể, nếu
trao các cơ sở giáo dục cho tôn giáo sẽ làm tăng tỷ lệ công dân "có
đạo" trong tương lai. Nhưng điều đó chỉ giúp cho có nhiều hơn những người
Việt Nam được học về luân lý.
Nên nhớ, các cố đạo là cha đẻ của chữ Quốc ngữ. Một chế độ tự
tin không sợ sự đa dạng trong văn hóa và giáo dục. Không có Nhà nước nào có
nhiều công cụ để trừng trị những ai muốn dùng trường học để "kích động bạo
lực" hay "chia rẽ khối đoàn kết dân tộc" như Nhà nước hiện hành.
Hơn 90% các cơ sở giáo dục của Giáo hội nằm ở những thành phố
lớn. Đa số đều là những trường lớn. Nếu những trường lớn này được trả lại cho
giáo hội (công giáo và phật giáo) hoặc tư thục hóa thì nguồn ngân sách, thay vì
tập trung cho những vùng mà người dân có khả năng chi trả cho con em mình, chia
sẻ cho những vùng mà con em của chúng ta đang cần những bữa "cơm có
thịt", đang cần những mái trường không rách, dột.
Để Các Trường Đại Học Tự Chịu Trách Nhiệm
Một cơ sở giáo dục không thể tồn tại nếu người lập ra và quản
trị nó không coi đó là một hoạt động kinh doanh vấn đề là sử dụng lợi nhuận để
ăn chia hay đầu tư trở lại cho giáo dục.
Chúng ta chưa có nhiều những cơ sở giáo dục phi lợi nhuận. Một
trong những lý do là gần như những người không nghĩ tới lợi nhuận rất khó xin
giấy phép mở trường. Chính phủ cần có nghị định hướng dẫn, bất cứ ai mở trường
(kể cả trường đại học) đều chỉ cần đăng ký với bộ máy hành chánh địa phương
theo thủ tục hình thành doanh nghiệp (loại có điều kiện).
Thật phi lý khi việc phong hàm giáo sư, phó giáo sư lại lệ thuộc
vào cái gọi là "hội đồng quốc gia" bao gồm những người có những
chuyên môn khác nhau, đa số rất xa lạ với chuyên môn của người mà họ ngồi xét
duyệt. Bộ phải để cho các trường chịu trách nhiệm về các sản phẩm của mình.
Chính Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cũng biết rằng, bằng giả chỉ có thể chui vào
"nhà nước" chứ" thị trường lao động" không bao giờ chấp
nhận. Thị trường biết sự khác nhau
giữa một "tiến sỹ Yale" với "tiến sỹ La Sella"; giữa một
"giáo sư Bách khoa" với một "giáo sư hàng huyện".
Tuyển sinh là công việc của nhà trường, Bộ đặt ra điểm chuẩn là
vừa lạm quyền vừa vô trách nhiệm với con em và xã hội. Về nguyên tắc, một một người đã học 12 năm mà không đủ khả năng học đại
học thì hệ thống giáo dục phổ thông tồn tại để làm gì. Kỳ thi chỉ là cách
để các trường tên tuổi tìm kiếm cho mình những sinh viên giỏi.
Với cách thi như hiện nay, không phải những ai trượt đại học đều
vì học lực. Đừng để các em bỏ lỡ cơ hội vào đời. Đừng để các em sớm rơi vào một
môi trường xã hội có quá nhiều tệ nạn.
Hiện chỉ mới có 40% học sinh tốt nghiệp phổ thông được học trong
các trường đại học hay cao đẳng. Phụ huynh của 60% học sinh còn lại sẽ yên tâm
hơn nếu, những ai chưa thể đi làm ngay, có một môi trường nhà trường dừng chân
trong vài năm, trước khi con em họ chọn đúng ngành học và tìm được việc làm
thích hợp.
Đừng tuyệt đối hóa môi trường đại học mà nên coi đó là một chặng
dừng chân chuẩn bị của các em. Nên để cho các trường đại học được mở dễ dàng
hơn. Đừng buộc các nhà đầu tư giáo dục phải có những điều kiện quá gắt gao.
Thật phi lý khi yêu cầu những người mở trường đại học phải có 5 hecta đất trở
lên bởi có những sự nghiệp giáo dục lớn lại chỉ bắt đầu từ một phòng học nhỏ.
Đừng đòi hỏi giáo viên phải có bằng thạc sỹ, tiến sỹ mà hãy để
các trường tìm đúng những người mà sinh viên của họ cần. Đừng sợ các trường đại
học "mọc ra như nấm". Người học và thị trường lao động sẽ điều chỉnh
chất lượng và phân loại các trường.
Lịch Sử và Chính Trị Là Các Môn Khoa Học
Với một quốc gia như Việt Nam thì việc tiếp tục dạy "chủ
nghĩa Marx - Lenin" là cần thiết. Các thế hệ tiếp theo cần biết "ý
thức hệ" đã dẫn dắt dân tộc ta đi qua những "bước ngoặt" nào.
Vấn đề là "Marx -Lenin" phải được tiếp thu không phải như một "giáo
lý" mà phải như một môn khoa học và trở thành một phần của bộ môn triết
học.
Thủ tướng cũng không nên quá lo ngại khi đụng chạm đến việc dạy
và học "Marx -Lenin". Vấn đề quan tâm lớn nhất trong Đảng hiện nay là
quyền lực chứ không còn là lý luận. Ông có thể gặp phản ứng gay gắt một cách
công khai nhưng ông sẽ có sự ủng hộ ngầm của tất cả học sinh, sinh viên và đặc
biệt là của một thế hệ cán bộ ở hàng trung, cao cấp.
Cũng cần khảo sát để biết sinh viên đang "tiêu hóa"
lịch sử Đảng và "triết học Marx - Lenin" ra sao. Thủ tướng nên bỏ
thời gian chạy lên khuôn viên Học viện Chính trị Quốc gia. Không có sân trường
nào có nhiều xe hơi hơn nơi đây. Ở đâu học sinh bị buộc phải có bằng chứng nhận
cho một thứ kiến thức mà cuộc sống không còn cần ở đó các "cơ chế" sẽ
vận hành bằng tiền bạc. Đa số cán bộ trong Đảng sẽ bỏ phiếu cho Thủ tướng nếu
nhờ ông mà từ nay họ không phải xa nhà cả năm, "hầu hạ" các thầy để
lấy bằng "cao cấp lý luận" trước khi đề bạt.
Nhà trường hiện đại không thể khép kín như một giáo đường. Anh
không thể xây dựng một nền giáo dục mà không biết rằng học sinh, sinh viên từ
lâu đã không chỉ học từ thầy mà còn có thể học từ internet. Lịch sử và chính
trị là những môn khoa học, không thể tiếp tục bắt người học đón nhận theo cách
của một tín đồ.
Nếu trong một môi trường giáo dục mà học sinh không thể tư duy
độc lập và tập dượt khả năng suy xét (critical thinking) thì cho dù cả nước tốt
nghiệp đại học và hàng triệu người có bằng tiến sỹ, dân trí ở đó cũng không thể
được tính là cao.
Cải cách giáo dục vì thế không thể lấy mục tiêu cho kỳ đại hội
đang tới gần mà phải đặt nền móng cho tương lai của nhiều thế hệ.
[1] Sáng 25-2-2014,Thủ tương chủ trì
phiên họp của Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực, tại phiên họp,
Bộ Giáo dục và đào tạo đã trình bày dự thảo quyết định về việc thành lập Ủy ban
quốc gia đổi mới giáo dục. Thủ tướng thống nhất thành lập Ủy ban.
[2] Nghị quyết số 05/2005/NQ–CP của Chính
phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể
thao ban hàng ngày18/5/2005: “Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục, đào
tạo và dạy nghề NCL; chuyển một số cơ sở công lập sang loại hình NCL. Hạn chế
mở thêm các cơ sở công lập ở những vùng kinh tế phát triển. Không duy trì các
cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công”.
[3] Vào năm 1964 các trường tư thục giáo
dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971
thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung
học. Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh
học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.
[4] Từ năm 1961-1975, Giáo Hội Công Giáo
tại miền Nam có 145 trường trung học với 62.324 học sinh và 1.060 trường tiểu
học với 209.283 học sinh (riêng tại giáo phận Sài Gòn có 56 trường trung học
với 30.748 học sinh và 338 trường tiểu học với 91.870 họcsinh). Tính đến năm
1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với
tổng số học sinh là 58.466.
..../.