Thép nội và Formosa: Cuộc so găng không cân sức
http://pomina-steel.com/index.php?option=com_content&view=article&id=282%3Athep-ni-va-formosa-cuc-so-gng-khong-can-sc&catid=1%3Atin-tuc-va-su-kien&Itemid=122&lang=vi
Ngành thép nội đang đứng trước cuộc so găng cùng Formosa
khi dự án này chuẩn bị đi vào hoạt động.
Ưu ái cho Formosa
Formosa là dự án đến từ Đài Loan trị giá 28 tỉ USD. Cùng
với vốn đầu tư “khủng” nêu trên, dự án này được ưu đãi đầu tư rất lớn mà chưa
dự án nào có được: được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp 10% (trong khi
doanh nghiệp thép nội địa phải chịu thuế 22%) tính từ năm có thu nhập chịu
thuế, sau đó được miễn thuế trong 4 năm và giảm tiếp 50% trong 9 năm tiếp theo.
Đặc biệt hơn nữa là mức ưu đãi đối với tiền thuê cho toàn
bộ hơn 3.318 ha đất trong 70 năm, thời gian thuê ổn định và không bị thu hồi
trong bất kỳ trường hợp nào. Đây là cơ sở ban đầu để nhà đầu tư láng giềng này
mạnh tay đầu tư vốn lớn. Nhằm phục vụ triển khai dự án này, thời gian qua, tỉnh
Hà Tĩnh đã thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng gần 2.000 ha đất với
11.825 hộ gia đình, cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, còn thực hiện di dời 58 nhà
thờ, gần 15.000 ngôi mộ về các khu tái định cư.
Có thể chúng ta đã quá ưu ái cho Formosa để thu hút được
một dự án đầu tư lớn. Với một dự án thép ưu đãi lớn như vậy đã đặt doanh nghiệp
thép Việt Nam vào thế cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà.
Sau sự cố “giàn khoan Trung Quốc” và những vụ tranh chấp
xảy ra trên địa bàn Hà Tĩnh vào tháng 5, Formosa đã tận dụng thêm cơ hội này để
đề nghị được bù đắp bằng những chính sách ưu đãi ở mức cao về thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thậm chí Formosa Hà Tĩnh còn mong muốn được
thành lập đặc khu kinh tế cho riêng mình. Chính phủ đã bác bỏ các đề xuất táo
bạo này nhưng rõ ràng có thể thấy tiếng nói mạnh dạn của Formosa trên thương
trường. Mới nhất, Formosa cũng đã đề nghị Bộ Giao thông Vận tải cho phép thành
lập đội tàu vận chuyển thép của Công ty tại Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay và đặc biệt là đối với lĩnh vực
thép trong nước đang rất cần được hỗ trợ thì những biệt đãi dành cho Formosa
dường như chưa được công bằng cho ngành thép nội địa. Theo Tiến sĩ Lê Đăng
Doanh, mỗi biện pháp ưu đãi cần gắn liền với việc mang lại hiệu quả cho nền
kinh tế, nhưng với dự án Formosa, lợi ích mang về cho Việt Nam chưa thực sự rõ
ràng.
Về mặt lợi thế cạnh tranh trên thị trường, sự xuất hiện
của Formosa với quy mô và ưu đãi lớn đã tạo thêm áp lực cạnh tranh, thậm chí có
thể đẩy nhiều doanh nghiệp Việt ra khỏi thị trường.
Về lao động, theo báo cáo của Ban Quản lý Khu Kinh tế Hà
Tĩnh, tính đến đầu tháng 10.2014, số lượng lao động người nước ngoài tại Khu
Kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh) đã gần 6.000, trong đó có 4.200 lao động Trung Quốc
hiện làm việc cho Formosa. Một dự án lớn tại Việt Nam nhưng lại giải quyết bài
toán lao động cho người nước ngoài.
Về chuyển giao công nghệ, với dự án đến 28 tỉ USD và lò
cao được thiết kế với công suất 2.000 m3, trong khi các công ty thép nội với
quy mô nhỏ hơn rất nhiều và quy mô lò cao lớn nhất cũng mới đạt 500 m3 thì liệu
doanh nghiệp nào có thể hưởng lợi từ công nghệ mà Formosa chuyển giao?
Bên cạnh đó, quá trình vận hành dự án cũng sẽ phát sinh
một số vấn đề liên quan đến nguồn tài nguyên trong nước và gây ô nhiễm môi
trường.
Formosa từng tuyên bố sản phẩm của họ chủ yếu để xuất
khẩu nhưng với thị trường tiêu thụ lớn nhất trong khu vực là Trung Quốc đang
đóng băng, thậm chí sẽ sụt giảm mạnh trong các năm tới thì có thể Formosa sẽ
tìm mọi cách để gia tăng lượng thép tiêu thụ tại Việt Nam.
Khó khăn cho thép nội
Từ năm 2008 đến nay, khi thị trường bất động sản và xây
dựng bị đóng băng và đình trệ, cộng với việc giảm đầu tư công dẫn dến sự suy
yếu của toàn ngành thép, thậm chí ngay cả doanh nghiệp lớn có “máu mặt” như
Công ty Cổ phần Thép Pomina cũng đã từng đứng trước thời khắc được xem là nguy
hiểm nhất.
Năm 2014, theo ông Nguyễn Mạnh Quân, Vụ trưởng Vụ Công
nghiệp Nặng (Bộ Công Thương), tiêu thụ thép sẽ tăng nhưng chỉ ở mức 3-5% so
với năm 2013 (do một số dự án hạ tầng của Chính phủ được triển khai), với sản
lượng tiêu thụ khiêm tốn khoảng hơn 12 triệu tấn.
Doanh nghiệp thép Việt Nam gặp thị trường đã khó, nhưng
khó hơn là phải cạnh tranh với nguồn thép được nhập từ Trung Quốc tăng mạnh
trong nhiều năm gần đây. Và sẽ còn căng thẳng hơn khi hai tháp lò cao (giai
đoạn I) của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh
đi vào hoạt động vào cuối năm nay.
Có 7,1 triệu tấn thép thành phẩm/năm sẽ được sản xuất bởi
doanh nghiệp này, trong đó 3 triệu tấn thép được tiêu thụ trong nước (chủ yếu
tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM). Một tương lai xa hơn, khi toàn bộ dự
án Formosa trị giá 28 tỉ USD hoàn thành, ước tính hằng năm Formosa sẽ đưa ra
thị trường 22,5 triệu tấn thép.
Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán KIS, năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong ngành thép của Việt Nam chưa cao. Trong khi
tại Trung Quốc, các nhà máy lò cao được hoạt động với mức sàn về mặt công suất
tối thiểu là 1.000 m3 thì lò cao nhất ở Việt Nam mới chỉ 500 m3. Chỉ có một số
ít doanh nghiệp có lợi thế về địa lý như Thái Nguyên mới tự khai thác quặng và
sản xuất thép theo công nghệ lò cao; hoặc những doanh nghiệp có tiếng khác như
Thép Pomina, Việt Ý thì nhập khẩu thép phế và sử dụng lò điện hồ quang.
Việt Nam có khoảng 400 doanh nghiệp hoạt động sản xuất
thép, nhưng đa số là quy mô nhỏ và sản xuất thép thô. Còn lại, những sản phẩm
khác như thép cuộn cán nóng, thép hợp kim, thép chế cơ khí, thép tấm lá… lại
phải đi nhập khẩu. Chính vì vậy, ngành thép nội địa luôn ở trong tình trạng mất
cân đối, thừa thép thô nhưng thiếu các sản phẩm thép khác.
Vậy lúc này, các doanh nghiệp thép lớn của Việt Nam nghĩ
gì từ câu chuyện Formosa?
Trao đổi với giới đầu tư mới đây, Chủ tịch Tập đoàn Hòa
Phát, ông Trần Đình Long, cho biết dự kiến cuối năm 2014, doanh thu của Hòa
Phát lần đầu tiên sẽ chạm mốc 26.000 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế có thể đạt hơn
3.000 tỉ đồng. “Chúng tôi không chỉ quyết tâm chiến đấu được trong nước mà còn
có thể cạnh tranh sòng phẳng với thép Trung Quốc, kể cả với Formosa”, ông nói.
Động thái của tập đoàn này là đang chuẩn bị xây dựng lò
cao số 3 để xuất khẩu phôi thép sang các nước Đông Nam Á nhằm giảm thiểu sự
cạnh tranh ở thị trường trong nước. Theo nhận định của Hòa Phát, đây là thị
trường có tiềm năng xuất khẩu lớn, bởi ở các nước như Thái Lan, Indonesia,
Philippines, giá cả không cạnh tranh nhiều do doanh nghiệp nước sở tại sản xuất
thép từ lò luyện gang và sắt vụn. Trong khi đó, Myanmar sẽ trở thành thị trường
tiêu thụ hơn là thị trường cạnh tranh, do quốc gia này thiếu rất nhiều điều
kiện để trở thành nhà sản xuất thép lớn (vì không có than, thiếu điện, quặng
sắt và phế liệu rất ít).
Nếu Hòa Phát đẩy mạnh đầu tư để xuất khẩu, bài toán của
Thép Pomina là đầu tư cho công nghệ tiên tiến. Điển hình như Dự án Pomina III
của Công ty đã đi vào hoạt động chuyên sản xuất phôi và luyện thép với tổng vốn
đầu tư khoảng 300 triệu USD. Dự án bao gồm 3 hạng mục đầu tư: nhà máy luyện
thép công suất 1 triệu tấn/năm, nhà máy cán thép công suất 500.000 tấn/năm và một
cảng biển có năng lực bốc dỡ đạt 3 triệu tấn/năm phục vụ cho nhà máy.
Ông Đỗ Duy Thái, Tổng Giám đốc Pomina, cho biết dự án này
là sự kết hợp của những công nghệ số 1 thế giới của Mỹ, Ý và Đức. Với các ứng
dụng này, Pomina sẽ giảm chi phí sản xuất, tận dụng được nguồn nhiệt tối đa,
cửa lò không phải mở, giữ nhiệt ổn định ở 1.6000C, giảm được thời gian nung từ
60 phút xuống còn 45 phút, giảm tiêu hao điện năng từ 600 KW/tấn xuống còn 350
KW/tấn. Chiến lược của Pomina trong thời gian tới cũng sẽ là cố gắng nâng cao
sản lượng xuất khẩu ra thị trường quốc tế, đạt 30% tổng sản lượng của toàn hệ
thống.
Một chuyên gia về công nghệ thép của Nhật cho biết dự án
Formosa được đầu tư ở Việt Nam là sự dịch chuyển nhà máy Formosa từ Cao Hùng
(Đài Loan) đã có từ lâu theo công nghệ lò cao. Và công nghệ này đã không còn
phù hợp do tiêu hao quá nhiều điện năng. Do đó, có thể khẳng định là công nghệ
Pomina có phần nổi trội hơn Formosa.
Ông Hồ Anh Tuấn, Trưởng
ban Khu Kinh tế Vũng Áng, cũng cho biết do chú trọng vào việc thu hút đầu tư,
việc đánh giá công nghệ đầu tư tại Khu Kinh tế Vũng Áng chưa được quan tâm đúng
mức; vì thế, dự án Formosa không có thẩm định công nghệ.
Còn ông Lê Phước Vũ, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam,
thì không đề cập đến vấn đề Formosa mà nhấn mạnh nhiều hơn đến việc doanh
nghiệp Việt Nam nên tận dụng triệt để các ưu thế về sản xuất và phân phối sản
phẩm trên thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Đầu tháng 10.2014, chính Tập
đoàn Hoa Sen của ông Vũ cũng đã khởi công dự án thép ở Nghệ An với công suất
giai đoạn 1 là 100.000 tấn/năm để chuẩn bị cho chiến lược toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, khi nhìn nhận lại năng lực cạnh tranh giữa một
bên là Formosa và một bên là các doanh nghiệp thép nội địa thì lợi thế vẫn
thuộc về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Với chiến lược hướng đến thị trường xuất khẩu, các doanh
nghiệp thép nội địa đã bỏ qua câu chuyện cạnh tranh ở thị trường này với ngay
chính Formosa.
Cần nhắc lại rằng trong 7,1 triệu tấn thép thành phẩm của
Formosa sản xuất mỗi năm, có 3 triệu tấn thép được tiêu thụ ở Việt Nam, hơn 4
triệu tấn thép còn lại sẽ nhắm đến thị trường các nước lân cận, vì chi phí vận
chuyển khá lớn. Và thị trường Đông Nam Á hiển nhiên cũng nằm trong tầm ngắm của
Formosa.
Ứng dụng công nghệ luôn là hướng đi đúng đắn và cần được
khuyến khích đầu tư. Thế nhưng, nếu khẳng định sử dụng công nghệ có thể vượt
lên Formosa là không thực tế, bởi thiếu điều kiệu về quy mô.Một nhà máy sản
xuất với quy mô lớn sẽ có được lợi thế cạnh tranh rất lớn về giá thành sản
xuất. Bên cạnh đó, hàng rào thuế nhập khẩu bảo hộ cho các mặt hàng như ống
thép, phôi thép, thép xây dựng... sẽ được dỡ bỏ trước cột mốc năm 2015. Đây
cũng là một lực cản lớn cho ngành thép nội.
Bài toán cho các doanh nghiệp thép Việt trước thách thức
của thị trường và trước một đối thủ lớn vẫn còn khó và nhiều trăn trở. Những
yêu cầu gần đây của các doanh nghiệp thép nội, đơn cử như yêu cầu tiếp tục giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp ngành thép xuống thấp hơn mức hiện hành, có thể sẽ
rút ngắn khoảng cách trong cuộc so găng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thép nội
hiện vẫn chờ đợi nhiều sự hỗ trợ hơn từ phía Nhà nước trong cuộc chiến sinh tồn
phía trước.
_________________________________________________________
Tính đến hết tháng 9.2014, lượng sắt thép cả nước nhập về
là 8,13 triệu tấn, trị giá 5,45 tỉ USD, tăng 15% về lượng và tăng 8,5% về giá
trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Sắt thép các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 9 tháng
đầu năm 2014 từ Trung Quốc là 3,95 triệu tấn, chiếm 48,6% tổng lượng sắt thép
cả nước nhập về và tăng 50,7% so với cùng kỳ năm 2013.
Nguồn: Tổng cục Hải quan
_________________________________________________________
Nguồn NHỊP CẦU ĐẦU TƯ
......../.