Cách mạng văn hóa là tội của ai?
(trao
đổi với giáo sư Mao Vu Thức)
_______________________________
Trong thời đại Mao Trạch Đông, dân chúng không
có quyền tự do ngôn luận, tự do theo đuổi nghề nghiệp, tự do cư trú và tự do
đổi nơi cư trú. Điều mà người dân có thể làm chỉ là sự phục tùng. Bởi vì “kẻ
không phục tùng không có cơm ăn”, ai không phục tùng thì phải “đói mà chết
dần”. Tất cả bi kịch cũng như mọi chuyện hoang đường xuất hiện trong thời Cách
mạng Văn hóa không phải là trách nhiệm và lỗi lầm của nhân dân Trung
Quốc (trong đó có giáo sư Mao Vu Thức[2]). Tạp chí Minh Kính số
tháng 8 đăng bài “Kỉ niệm một vị nữ thánh” của Ngô Giá Tường.[3] Trong bài có nhắc đến
chuyện kinh tế gia Mao Vu Thức phát biểu trong lễ kỉ niệm tròn 90 năm ngày sinh
Vương Bối Anh[4] rằng “Bi kịch Cách mạng Văn hóa
dù do lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đích thân đạo diễn, cộng thêm nhóm tứ nhân
bang cùng những kẻ tay sai trợ ác cùng lắm cũng chỉ mấy trăm người. Vậy mà cả
nước sáu bảy trăm triệu người điên cuồng vào cuộc. Có một nửa trách nhiệm ở
người dân.
Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì
làm việc đó thì khẳng định là làm không nổi”.[5] Giáo sư Mao có dũng khí phản tỉnh
như vậy thực đáng ca ngợi. Vậy mà người viết bài này quả thật không dám đồng ý
với phát biểu cho rằng nhân dân phải gánh một nửa tránh nhiệm về bi kịch Cách
mạng Văn hóa và nếu như là ở Mĩ thì không thể tiến hành được cuộc cách mạng đó.
Chúng tôi cho rằng quan điểm đó có vấn đề về logic rất đáng được
trao đổi thêm.
“Kẻ không phục tùng không có cơm ăn”
Cách mạng Văn hóa sở dĩ có thể phát động và
lôi cuốn dân chúng – việc này hoàn toàn có quan hệ với thể chế chính trị Trung
Quốc. Dưới thời Mao, dân không chỉ mất quyền tự do ngôn luận. Đến quyền tự do
chọn nghề nghiệp, tự do cư trú và di chuyển cũng chả có. Mỗi một người đều trở
thành “chiếc đinh ốc” trong cỗ máy quốc gia. Còn Nhà nước thì trở thành người
chủ nhân công duy nhất, người kinh doanh của tất cả các xí nghiệp. L.Trotsky
nói từ 1937: “Trong những nước mà Nhà nước là người thuê nhân công duy nhất, phản
kháng đồng nghĩa với việc “từ từ chết đói”. Nguyên tắc xưa cũ “kẻ không lao
động không được ăn” đã bị thay thế bởi nguyên tắc mới “kẻ không phục tùng không
được ăn”[6] (sách “Đường đến nô dịch”). Trong
một xã hội như thế, việc mà dân chúng có thể làm chỉ có thể là phục tùng và
phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không được ăn”, kẻ không phục tùng thì sẽ
đối diện với uy hiếp của cái chết phải “từ từ chết đói”.
Ta hãy xem tình cảnh xã hội Trung Quốc thời
Mao. Chính quyền mới được thành lập sau 1949. Trong thập niên những năm 50 hàng
loạt các cuộc vận động chính trị và trấn áp phản cách mạng do Mao phát động đã
tiêu diệt triệt để giai cấp trí thức thân hào trong xã hội Trung Quốc truyền
thống.
Những chức năng có tính truyền thống của xã
hội Trung Quốc theo đó cũng tiêu vong. Trên một cơ sở như thế Mao đã sử
dụng năm thủ đoạn kể sau để khống chế chặt chẽ xã hội dưới tay mình.
Thủ đoạn thứ nhất – Chế độ hộ khẩu
Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách
thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê
không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có
chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có
hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là
không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình.
Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế
độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất
bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng
chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được
hưởng đều là “không có gì”.
Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng
khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến
giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa
thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai
có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế
Thủ đoạn thứ hai – Chế độ tem phiếu phân phối
Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu
để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất
cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được
phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương
thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được
định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn
chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các
tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng
toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành
phố.
Người ta không thể xoay trở được nếu như không
có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế
được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm
một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu
dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu
xe đạp,… Đến tết có phiếu hàng tết.Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời
sống người dân Trung Quốc.
Thủ đoạn thứ ba – Chế độ hồ sơ lí lịch
Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi
người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan
hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi
đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời.
Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của
cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ
luật.
Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương
sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê
viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó
ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng
cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí
lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi.
Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn
luận.
Thủ đoạn thứ tư – Chế độ giáo dục lao động cải
tạo
Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại
xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo
dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như
thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với
một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là xử phạt
hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao
động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện
dân” của xã hội và chịu sự kì thị.
Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi
người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại
chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù,
mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là
biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao.
Thủ đoạn thứ năm – Chế độ cơ quan đơn vị
Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính
là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất
cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có
quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công.
Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời
làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công.
Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi
làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc
bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao
đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường
cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh
tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng.
Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không
có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những
thủ đoạn như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là
hết cuộc vận động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả
khiến cho nhân dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi
nữa. Cách mạng Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng
cả xã hội vẫn được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một
cuộc vận động chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực.
Nói cách khác Mao phát động Cách mạng văn hóa
là nhằm mục đích biến giang sơn của một đảng thành giang sơn của một nhà,
chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7] (Xem Lưu Thông, “Mục đích của
Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”). Trong Cách mạng Văn
hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng tất cả đều bị cuốn
vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc nhưng kẻ phát động
thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định trước.
Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không
sao hiểu được nguyên do, họ lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện
dường như là “cách mạng gặp phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu
bắt đầu công việc tự kiểm thảo đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn
trận, khiến cho đám đông những là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không
biết phải như thế nào cho phải, suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu
hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một không khí khủng bố chính trị như thế, quần
chúng dân đen không chút quyền hành sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng
phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái
mình phản ánh, tố giác.
Trong thời buổi Cách Văn hóa, ai cũng run sợ
cho bản thân, ngay cả người thân cũng không được tin. Lúc bấy giờ, “tin tưởng”
đã trở thành từ đồng nghĩa của từ “nguy hiểm”. Bạn bè tri âm trở thành người
cáo giác, người dám nói thẳng chẳng khác gì đang đào huyệt cho mình. Cả nước từ
trên xuống dưới chỉ mỗi Mao là người hưởng quyền “tự do ngôn luận” ghi trong
hiến pháp. Mọi công dân của cộng hòa quốc này đều đã bị tước bỏ quyền phát
ngôn. Mọi hành động đều chờ chỉ huy của Mao, vạn vật sinh trưởng cũng nhờ sự
tưới tắm của “lời dạy của chủ tịch” (ngữ lục).
Trong những năm tháng gọi là “cách mạng” đó,
mở miệng là “muôn năm”, kiểm thảo ngày nào cũng có, tự sát trở thành ước mơ.
Tất cả là để làm gì? Vận động quần chúng là để chặn đánh tâm lí phản nghịch của
quần chúng. Vận động lãnh đạo cao cấp là để chống lại “lửa bất bình” nơi họ,
làm cho họ cụp tai cúi đầu cam nô lệ. Mao gây bao án oan, bức đồng chí không
ngừng tự kiểm thảo. Mao muốn tinh thần “tội tổ tông” thấm sâu vào thần dân. Chỉ
như thế thì mới có thể khiến cho dự trù chính trị của mình thực hiện thông
suốt. Ham sống sợ chết là thiên tính của con người.
Trong một xã hội mà không khí khủng bố nhuốm
mùi tanh của máu, dân chúng xô dạt theo dòng lớn là chuyện không khó hiểu cả về
tình lẫn về lí. Hẵng xem một người tài năng tót vời như Quách Mạt Nhược đã phải
sống một cuộc sống run rẩy kinh hãi ra sao là đủ biết quần chúng thường dân vì
sao lại phải “ngây cuồng”. Hẵng xem biết bao nhà văn nổi tiếng bỗng chốc tất cả
cùng im lặng tập thể, gác bút tập thể là đủ thấy Mao Trạch Đông đã không chế
thành công xã hội Trung Quốc đến mức nào. Cũng đủ để thấy dân chúng vì sao phải
“ba phải a dua”. Bởi vì họ chỉ mỗi việc phải phục tùng, “ngây cuồng” hay “ba
phải vào hùa” là kết quả của việc phải phục tùng. Không thế thì sẽ “dần dần
chết đói”.
Dám chắc giáo sư Mao Vu Thức cũng ở
trong đội ngũ đó. Đó quyết không phải là tội lỗi và trách nhiệm của nhân dân
Trung Quốc (gồm cả giáo sư trong đó). Quả đúng như giáo sư đã nói: “Nếu Mao
Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm Cách mạng Văn hóa thì khẳng định là
làm không nổi”. Sở dĩ những việc tương tự Cách mạng Văn hóa không thể phát động
nổi ở Mĩ là bởi vì chế độ chính trị quốc gia này không cho phép các nhà chính
trị muốn làm gì thì làm. Điều còn quan trọng là, các nhân vật chính trị ở Mĩ là
do dân chúng bỏ phiếu chọn ra.
Tất cả những người đó (bao gồm cả tổng thống)
đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Thế nên chính trị gia tại Mĩ không
thể hành động khinh suất hay tùy ý trái phản ý dân. Ai cũng biết chính trị
Trung Quốc thời Mao và chính trị Hoa Kì không giống nhau. Vậy đương nhiên là
ngón nghề của Mao làm sao mà thi hành được ở Hoa Kì! Bản thân Mao cũng biết rõ
điều đó. Sau lúc Liên Xô hạ bệ Stalin, chính Mao từng nói nếu như ở các nước
phương Tây thì đã không có chuyện kiểu Stalin.[8]
Thế nhưng Mao hoàn toàn không rút ra bài học
gì cả. Sau vụ Watergate, Richard Nixon bị điều trần. Bill Clinton vì chuyện
quan hệ ngoài hôn nhân mà bị quốc hội điều tra và ông đã buộc phải xin lỗi dân
Mĩ.
Ngược lại Mao chưahề có một lời xin lỗi nào về những việc sai lầm của mình. Bành
Đức Hoài[9] dũng cảm vì dân cuối cùng cũng
chỉ là “Tôi không uống thuốc của Mao Trạch Đông” “Tôi không ăn cơm của Mao
Trạch Đông”.[10] Một nguyên soái chiến công hiển
hách cũng chỉ biết dùng cách đó để phản kháng thì còn yêu cầu được người dân
phải làm thế nào?
Một chế độ tốt đẹp có thể khiến một người xấu
không dám làm việc hư, một chế độ bất lương có thể khiến người tốt làm việc
xấu.
Đây là lí do vì sao người ta yêu cầu phải cải
cách thể chế. Giả sử, nếu xưa kia các bậc tiên hiền buổi đầu nước Mĩ kiến quốc
không dựng nên chế độ dân chủ, nếu G.Washington sau 8 năm làm tổng thống
không sáng suốt và dứt khoát rút lui khỏi đời sống chính trị, nếu không có việc
những người kế thừa Washington thể chế hóa hành động của ông, nếu Washington
thực hiện triệt để chế độ chính trị kiểu Mao thì hoàn toàn có thể khẳng định –
việc xuất hiện thảm cảnh Cách mạng Văn hóa hay việc nảy sinh bi kịch tương tự
bi kịch của những Trương Chí Tân[11], Vương Bối Anh là hoàn toàn có thể.
Vì vậy, tất cả những bi kịch hay những chuyện
hoang đường xuất hiện trong Cách mạng Văn hóa chỉ có thể là trách nhiệm của kẻ
phát minh Mao Trạch Đông. Nếu không sẽ là không công bằng đối với lịch sử và
cũng là một điều sỉ nhục đối với người dân Trung Quốc – những kẻ không có chút
quyền kinh tế và quyền chính trị nào trong tay.
Lê
Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung
(Nguồn: tạp
chí Thế giới mới số 14-2013 (1031) ngày 22-4-2013)
đăng
lại từ trang khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
[1]Học giả Nhật gốc Hoa. Bài đăng
trên 《明鏡月刊》nhan đề “文革”究竟誰之罪:與茅于軾先生商榷” (xin xem city.mirrorbooks.com).
[2]茅于軾 (Mao Yushi 1929- ), nhà kinh tế học Trung Quốc đương
đại. Năm 1958 bị quy “phái hữu” đình chỉ công tác. Trong Cách mạng Văn hóa bị
khám nhà và đấu tố rồi bắt đi lao động. Nhận Giải thưởng kinh tế học Milton
FriedmanLiberty Prize của Mĩ năm 2012.
[3] 吳稼祥(Wu Jiaxiang 1955 – ), nhà nghiên cứu
kinh tế học, từng thỉnh giảng tại Đại học Harvard. Sau sự kiện mùa xuân Thiên
An Môn bị bắt giam. Mãn hạn tù năm 1992. Ngô là một trong những học giả đề xuất
sớm nhất ý hướng cải cách xí nghiệp quốc doanh và thực hiện chế độ cổ phần ở
Trung Quốc.
[4] 王佩英(Wang Peiying 1915-1970), nguyên là một nữ
nhân viên ngành đường sắt, do phản đối Mao Trạch Đông mà bị bắt vào viện
chữa bệnh tâm thần. Trong Cách mạng Văn hóa bị gán tội phản cách mạng, nhét
gạch vụn vào mồm và giong phố đấu tố. Sau đó bị phán quyết “lập tức tử hình”.
Cuộc xử bắn ngày 27/1/1970 được truyền hình làm gương. Năm 1980 sửa án sai,
kết luận bị bệnh nhân tâm thần không nên kết án hình sự. Năm 2011 kết luận lại
Vương vô tội và rút lại lời kết luận Vương mắc bệnh tâm thần.
[6] Xem Vương Minh Nghị dịch, 《通向奴役之路》, Trung Quốc Xã hội Khoa học Xuất bản xã,
1997, tr.116 (The Road to Serfdom của Friedrich August
von Hayek có bản dịch tiếng Việt Đường về nô lệ của Phạm Nguyên Trường, Hà Nội, Nxb Tri thức –ND).
[7]Xem劉松,《文化大革命的目的-確立繼承人》introng日本大學大學院國際關係研究科《大學院論集》, kì 11, 2001, tr.61~85. Hoặc
xem 關心 dịch,《毛澤東最後的革命》, Thinker Publishing (HK) Limited xuất bản, 2009, tr.328 (tức cuốn Mao’s
Last Revolution của Mac Farquhar và Roderick – ND)
[9] Bành Đức Hoài (1898-1974), nguyên
soái, từng là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chống lại chính sách
Đại nhảy vọt của Mao từ Hội nghị Lư Sơn (1959). Bị quy tội phản đảng cách chức
và kỉ luật. Trong Cách mạng Văn hóa bị đấu tố đánh đập rồi quy tội gián điệp.
Bị thầm vấn hàng trăn lần. Mắc bệnh không được chạy chữa, chết ngày 29/11/1974.
Trước lúc chết xin được gặp vợ đã li hôn đang lao động cải tạo ngoại ô Bắc Kinh
nhưng bị vợ từ chối. Bình đựng tro cốt ghi thành họ tên khác. Được khôi phục
danh dự năm 1978. Ghi chép trong tù xuất bản thành sách nhan đề “Bành Đức Hoài
tự thuật” (ND).
[10] Xem 馬輅,佩璞,馬秦泉,《彭德懷廬山起禍》(Bành Đức Hoài – Tội khởi từ Hội nghị Lư Sơn),
Nhã Lâm xuất bản xã, 1990, tr.36.
[11] Trương Chí Tân (1930-1975), đảng
viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Bị bắt tù từ 1969 cho đến 1975 vì dám phê phán
sùng bái cá nhân và bệnh tả khuynh. Khác biệt giữa hai người phụ nữ Trương Chí
Tân và Vương Bối Anh ở chỗ Trương trước sau không phủ nhận tư cách đảng viên
của mình, trong lúc Vương sớm xin ra khỏi đảng. Trương trước lúc đem ra tử hình
đã bị tra tấn đến phát điên nhưng vẫn bị cho là giả vờ trong lúc Vương khi đưa
ra bắn bị xem là điên. Vương bị siết cổ khi đem ra pháp trường còn Trương bị
cắt yết hầu trước khi xử tử. Năm 1978 Trương được khôi phục danh dự, năm 1979
công nhận liệt sĩ (ND).
.........../.