THƯ LÝ QUANG DIỆU GỬI
MARGARET THATCHER VỀ VẤN ĐỀ THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
http://baotreonline.com/Chuyen-muc-tre/Le-Cheo/th-ly-quang-diu-gi-margaret-thatcher-v-vn-thuyn-nhan-vit-nam.html
*************
Phạm Thị Hoài
Trong tác phẩm Bên Thắng Cuộc,
chương "Nạn kiều", nhà báo Huy Đức nhắc tới "Phương án II",
"một kế hoạch 'được phổ biến miệng để giữ bí mật', theo đó: người
di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ
bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư,
chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ
đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản." [1]
Đó là thời điểm từ giữa năm 1978 đến giữa năm
1979, khi chiến dịch bài Hoa ở Việt Nam dâng cao và chiến tranh biên giới
Việt-Trung bùng nổ. Những người vừa mất nơi sinh sống, vừa mất hết tiền của vào
tay chính quyền để ra đi "hợp pháp" trong vòng bí mật và không ít
cũng sẽ mất mạng trên biển trong kế hoạch này phần lớn là người Việt gốc Hoa.
Phương án bí mật, chưa bao giờ được chính quyền
Việt Nam thừa nhận này, được đánh giá từ một nguồn bất ngờ khác: bức thư của cố
Thủ tướng Singapore vừa qua đời, gửi cho cố Thủ tướng Anh ngày 5/6/1979, đăng
trên trang Margaret Thatcher
Foundation.
Chúng ta đã biết rằng Lý Quang Diệu ủng hộ sự xích lại gần nhau
của Trung Quốc và Hoa Kỳ sau Chiến tranh Việt Nam để kiềm chế ảnh hưởng của
Liên Xô. Ông cũng biện bạch cho Pol Pot, rằng Khmer Đỏ là một phương án cần
thiết, chẳng qua chỉ bị giới truyền thông cường điệu lên thành ma quỷ [2]. Về
xung đột biên giới Việt-Trung, ông cho rằng nếu Trung Quốc không dạy cho Việt
Nam một bài học thì giờ này Liên Xô đã bành trướng thế lực ra toàn Đông Nam Á,
rằng các nước trong khu vực đều hưởng lợi từ đòn phủ đầu của người Tàu. Khi ấy,
Đặng Tiểu Bình đã coi ông là cố vấn và mô hình Singapore đã trở thành hình mẫu
của Trung Hoa hiện đại. Họ Lý và họ Đặng gặp nhau hai lần, trò chuyện kéo dài,
nồng ấm và trân trọng lẫn nhau, ngày 12 và 13/11/1978, trong chuyến thăm đầu
tiên của nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Singapore. Trước đó một tháng, nhanh chân
hơn, ngày 16/10/1978, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng đến Singapore tiếp
kiến Lý Quang Diệu. Nhưng cuộc trò chuyện giữa họ Lý và họ Phạm, theo miêu tả
của một nhà ngoại giao Singapore chứng kiến cả ba cuộc gặp mặt [3], diễn ra
lạnh lẽo.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, hàng trăm ngàn
thuyền nhân Việt Nam trở thành một vấn nạn quốc tế. Khác với nhiệt tình cứu
giúp những năm trước, các nước trong khu vực bắt đầu lo ngại, từ chối, thậm chí
xua đuổi và có cả trường hợp nổ súng vào thuyền nhân Việt Nam. Các nước phương
Tây bắt đầu đùn đẩy nhau trách nhiệm bảo lãnh. Anh quốc đóng một vai trò, vì
điểm đến của những nạn kiều gốc Hoa này trước hết là Hồng Kông, trong khi Anh quốc chỉ sẵn lòng
tiếp nhận tổng cộng chưa đầy 2000 người. Trước áp lực của công
luận, Thủ tướng Anh Margaret Thatcher thậm chí đã tính đến việc mua một hòn đảo
ở Thái Bình Dương cho thuyền nhân Việt Nam định cư. Dự định này bị Lý Quang
Diệu phản đối, vì lo ngại nó sẽ trở thành một đảo quốc, cũng của những người
Tàu tha phương, cạnh tranh với Singpore [4].
Ngày 23/5/1979, một chiếc thuyền với 293 người tị nạn Việt Nam
được con tàu chở hàng Roachbank của Anh trên đường từ Singapore đến Đài Loan
cứu vớt, đến Cao Hùng ngày 27/5. Song chính quyền Đài Loan từ chối không cho họ
nhập cảnh, tàu Roachbank không được phép cập cảng [5]. Bà Margaret Thatcher đã
nhờ đến Thủ tướng Singapore để gây áp lực với chính quyền Đài Loan, trước khi
nước Anh phải đối diện với trách nhiệm bảo trợ những con người trong bước đường
cùng đó.
Toàn văn bức thư trả lời của Lý Quang Diệu như sau:
Ngày 5/6/1979
Thưa Thủ tướng,
Cảm ơn bà về bức thư ngày 30 tháng Năm.
Vấn đề người tị nạn này rất nghiêm trọng và có lẽ sẽ còn tồi tệ
hơn.
Tháng trước, tại một hội nghị quốc tế ở Jakarta ngày 15-16 tháng
Năm, đại diện Việt Nam đã tuyên bố rằng Việt Nam sẽ cho phép 10.000 người di
tản hợp pháp mỗi tháng. Ông ta ước chừng dè dặt là có khoảng 600.000 người muốn
ra đi. Phần lớn cho rằng con số ấy có thể lên đến gần một triệu.
Bà có đề nghị tôi thỉnh nguyện chính phủ Đài Loan nhận những người
tị nạn trên con tàu "Roach Bank". Vì quan điểm của chính nước tôi
trong vấn đề người tị nạn Việt Nam, tôi không thực sự là người thích hợp để đưa
ra yêu cầu đó. Chính sách của Đài Loan không khác gì chính sách của Singapore.
Tuy nhiên, tôi sẽ đề nghị họ cân nhắc việc đưa ra một ngoại lệ, ngoại lệ duy
nhất, cho những người tị nạn trên tàu "Roach Bank". Tôi không lạc
quan về kết quả, vì tôi biết rằng nếu họ chấp nhận thì cử chỉ đó sẽ kéo theo
hàng ngàn người tị nạn khác.
Tôi tin rằng những tin tức về vấn đề người tị nạn trên truyền
thông và từ các phát ngôn viên của các chính phủ phương Tây chỉ làm lợi cho
chính quyền Việt Nam. Chú trọng vào những giải pháp có thể đặt ra, chẳng hạn
nước nào sẽ đảm nhận những người tị nạn nào và bao nhiêu, truyền thông đã biến
họ thành đối tượng cho sự đổ lỗi lẫn nhau giữa các chính quyền phi cộng sản.
Các nước này sẽ đảm bảo được quyền lợi của mình hơn, nếu tập trung năng lượng
vào việc vạch trần sự bỉ ổi của chính quyền Việt Nam. Phải nói, phải nhắc đi
nhắc lại, cho nhân dân và các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới biết rằng chính
quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính là kẻ tích cực xúc tiến
cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng nề cho các nước Đông Nam Á.
Chúng ta phải đẩy họ vào thế thủ. Các nhà lãnh đạo Việt Nam không
phải là những kẻ điên rồ vô lý như kiểu Idi Amin [6]. Họ có đầu óc lạnh lùng
tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình, nhưng làm phép tính
giữa chi phí và lời lãi thu về thì rất nhanh. Chỉ có nguy cơ bị cộng đồng quốc
tế ruồng bỏ mới khiến họ phải suy xét lại đường lối hiện tại. Từ giờ đến lúc
đó, họ sẽ còn tung ra hàng ngàn người tị nạn mỗi tuần.
Kính thư
Lý Quang Diệu
Với những lời thẳng thừng không một chút màu mè ngoại giao này, vị
nguyên thủ Singapore khó có thể hãnh diện về trái tim nhân đạo của mình, song
sự tỉnh táo sắc bén của ông quả là xứng đáng với huyền thoại Lý Quang Diệu. Làm
thế nào một người hoàn toàn đứng ngoài như ông, ngay ở thời điểm đó, có thể
nhận ra thực chất của chính sách kiếm lời trên lưng thuyền nhân của chính quyền
Việt Nam, khi phần lớn người Việt chúng ta cho đến giờ phút này vẫn không biết
gì, hoặc có biết cũng không thể tin hay không muốn tin vào cái gọi là Phương án
II, như đã dẫn ở đầu bài?
Bức thư này, dù chỉ như một ghi chú nhỏ, là một bổ sung vào những
trang còn trống của lịch sử thuyền nhân Việt Nam, và, bất chấp sự khó chịu của
rất nhiều người Việt, nó còn cho thấy chính Việt Nam những năm tháng ấy cũng đã
góp phần không nhỏ để xung đột Việt-Trung biến thành bạo lực, rồi đến lượt nó
bạo lực lại nhả độc ngấm sâu trong lòng người Việt như thế nào.
.........../.
1 Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, OsinBook 2012, tr. 123
2 John Pilger, "The Long Secret Alliance: Uncle Sam and Pol Pot", Covert Action Quarterly, 1997
3 Lee Chiong Giam, "Reflection in Bits and Pieces", trong The Little Red Dot: Reflections by Singapore's Diplomats, World Scientific Publishing Company, tr. 211
4 The Sydney Morning Herald, 31/12/2009
5 Thông tin trên trang của Cao ủy Tị nạn LHQ
6 Nhà độc tài Uganda, được mệnh danh là "Đao phủ châu Phi"
2 John Pilger, "The Long Secret Alliance: Uncle Sam and Pol Pot", Covert Action Quarterly, 1997
3 Lee Chiong Giam, "Reflection in Bits and Pieces", trong The Little Red Dot: Reflections by Singapore's Diplomats, World Scientific Publishing Company, tr. 211
4 The Sydney Morning Herald, 31/12/2009
5 Thông tin trên trang của Cao ủy Tị nạn LHQ
6 Nhà độc tài Uganda, được mệnh danh là "Đao phủ châu Phi"
_______