Trung Quốc tính toán sai trong vụ giàn khoan
http://basamnews.info/2014/05/21/2251-trung-quoc-tinh-toan-sai-trong-vu-gian-khoan/#more-131406
Tác giả: Bill Hayton
Người dịch: Huỳnh
Phan
19-05-2014
Bắc Kinh đã với tay quá xa
ngoài biển Đông?
Trung Quốc đã đạt được gì khi
đưa giàn khoan nước sâu của họ vào vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa?
Với một hành động đơn lẻ họ
đã ‘thành công’ làm vỡ mối quan hệ với những người cộng sản anh em tại Việt
Nam, làm công luận Việt Nam phẫn nộ, tạo ra hàng gigabyte tin trên phương tiện
truyền thông quốc tế quan trọng, làm sống lại diễn từ về “mối đe dọa Trung
Quốc” ở Đông Nam Á và làm ASEAN thống nhất, đứng sau một tuyên bố quan trọng về
hành động của họ. Ít nhất 3.000 người Trung Quốc đã bị buộc phải rời khỏi Việt
Nam trước đám đông giận dữ đã đốt hàng chục nhà máy, không phân biệt là của
người Hoa Đài Loan hay Hoa lục địa. Và để làm gì?
Luôn có cơ may để giàn khoan
dầu này có thể khoan ra dầu nhưng xác suất rất mỏng manh. Có thể CNOOC [Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation – CNOOC / wiki] đã nắm được các khảo sát địa
chấn của khu vực này nhưng dường như có nhiều khả năng là chỗ đặt giàn khoan
được chọn vì lý do địa chính trị hơn là địa lý. Chưa có mỏ dầu nào khác được
phát hiện gần quần đảo Hoàng Sa.
Theo
Yenling Song của Platts Energy ở Singapore, ước tính CNOOC phải chi 328.000 USD
một ngày để giữ giàn khoan ở điểm đó. Mặc dù CNOOC có đầy rẫy tiền
mặt, nó không thể để giàn khoan ở mãi một vị trí mà chẳng tìm ra thứ gì. Giàn
khoan cuối cùng sẽ phải rút đi, và một khi nó ra đi, biển sẽ trống vắng trở
lại. Tất cả những rắc rối gây ra hơn hai tuần qua sẽ chẳng vì lợi lộc kinh tế
nào cả.
Nếu lợi nhuận không phải là
lý do để CNOOC khoan ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa thì chúng ta phải giả định
rằng có các yếu tố khác đã ảnh hưởng đến những người ra quyết định ở Bắc Kinh.
Tuy nhiên, khi chúng ta lần lượt nhìn vào từng yếu tố, có vẻ như khó để thấy
cuộc đối đầu hiện nay sẽ thúc đẩy lợi ích tổng thể của Trung Quốc đi lên như
thế nào. Thật ra, có vẻ lợi ích đó có nhiều khả năng sẽ bị tổn hại hơn.
Có thể Bắc Kinh nghĩ rằng
khoan dầu sẽ là một sự khẳng định rõ ràng chủ quyền thuộc về Trung Quốc: một
hành động sẽ hậu thuẫn cho yêu sách lãnh thổ của đất nước này. Tuy nhiên, có
thể dự đoán được là Việt Nam cũng thực hiện một phản ứng không kém quyết đoán.
Tòa án quốc tế sẽ không coi cuộc đối đầu hiện nay là việc củng cố cho yêu sách
của bên nào đối với các đảo và vùng nước xung quanh. Nếu việc củng cố vị thế
pháp lý của Bắc Kinh là lý do cho thao tác đó thì họ đã thất bại.
Chia tách ASEAN?
Động thái này có thể là một
nỗ lực để chia tách Hiệp hội các nước châu Á và cô lập Việt Nam. Có lẽ Bắc Kinh
đã hy vọng lặp lại việc làm thành công của họ tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN họp tại Phnom Penh vào tháng 7 năm 2012. Cuộc họp đó tiếp sau việc Trung
Quốc chiếm đóng thành công bãi cạn Scarborough, một rạn san hô nằm ngay trong
vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, và cũng sau việc CNOOC thông báo
mời đấu thầu các lô thăm dò dầu trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam.
(Những lô này nằm ngay phía nam địa điểm tranh chấp hiện nay).
Tại cuộc họp Phnom Penh,
Philippines và Việt Nam yêu cầu các đồng nhiệm ASEAN ra một tuyên bố ủng hộ. Nỗ
lực của họ đã bị cản trở bởi những hành động của nước chủ nhà, Campuchia phủ
quyết bất kỳ tuyên bố nào có đề cập đến các sự cố này. Nhiều tường thuật vào
thời điểm đó cho thấy rằng Campuchia đã làm như vậy là do ảnh hưởng mạnh mẽ của
ngoại giao và viện trợ của Trung Quốc. ASEAN gánh chịu chia rẽ và thương tổn.
Có lẽ Trung Quốc hy vọng sẽ
lặp lại thành công đó lần này bằng việc ra tay với Việt Nam chỉ vài ngày trước
hội nghị thượng đỉnh ASEAN. Có lẽ các nhà ngoại giao của TQ tự tin rằng họ có
thể thuyết phục Campuchia và có thể Myanmar, Thái Lan hoặc Lào phủ quyết một
tuyên bố chung, để Việt Nam bị cô lập và ASEAN chia tách. Điều đó đã không xảy
ra. ASEAN đã ra tuyên bố đặc biệt phê phán các sự cố ở biển Đông.
Một số nhà quan sát cho rằng
vì tuyên bố không nêu rõ tên Trung Quốc, nên Việt Nam đã thất bại trong việc
giành lấy sự ủng hộ của các nước ASEAN. Nhưng ASEAN không làm việc theo cách
đó. Quay trở về tận tuyên bố lần đầu tiên của ASEAN về biển Đông vào năm 1992,
sau khi Bắc Kinh cấp chuyển nhượng quyền khai thác dầu ngoài khơi bờ biển Nam
Việt Nam cho một công ty Mỹ, và khi Bắc Kinh chiếm đảo Vành Khăn trong EEZ của
Philippines năm 1995 – ASEAN luôn luôn bày tỏ mối quan ngại của mình với sự
kiềm chế và bình thản. Bất cứ ai mong đợi ASEAN áp đặt trừng phạt kinh tế Trung
Quốc, hoặc phái một lực lượng đặc nhiệm biển ra tống tiễn giàn khoan dầu của
CNOOC cần tìm hiểu thêm một chút về Đông Nam Á.
Tuy nhiên, nếu Bắc Kinh hy
vọng cô lập Việt Nam và chia tách ASEAN, họ đã thất bại. ASEAN đã đứng lên từ
khủng hoảng, đoàn kết và cảnh giác hơn bao giờ hết về ý định của Trung Quốc.
Gây sức ép với Việt Nam?
Tháng 12 năm 2000 Trung Quốc
và Việt Nam thoả thuận đường phân giới biển chung nằm trong Vịnh Bắc Bộ. Đường
này chạy từ biên giới Trung Quốc trên bờ biển đất liền theo hướng đông nam xa
tới đảo Hải Nam. Mặc dù đã gần 14 năm đàm phán kể từ đó, hai bên đã không thể
thoả thuận đường này sẽ đi tiếp tới chỗ nào. Điểm bế tắc là tranh chấp về quyền
sở hữu quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này nằm ngoài cửa Vịnh và nếu không có một
giải pháp cho tranh chấp này thì không thể có thoả thuận về đường phân giới.
Tháng 10 năm ngoái, Thủ tướng
Trung Quốc Lý Khắc Cường đến thăm Việt Nam và Chính phủ hai nước đã đồng ý
thành lập một “nhóm công tác biển”. Tuy nhiên, dù có sự thúc giục của Lý Khắc
Cường vẫn không có tiến bộ nào trong việc vẽ đường ranh giới. Trong bối cảnh
đó, việc triển khai giàn khoan dầu có thể được hiểu như nỗ lực của Bắc Kinh để
nâng tầm quan trọng, cố cho Việt Nam thấy rằng Bắc Kinh không đùa trong việc
xốc tới với việc phát triển các nguồn tài nguyên biển dù Hà Nội có đồng ý hay
không.
Tuy nhiên, động tác mạnh bạo
này dường như không có hiệu quả. Có vẻ không thể xảy ra việc giàn khoan sẽ khám
phá ra mỏ dầu khí có trữ lượng thương mại. Thậm chí nếu có thì những khó khăn
trong việc đặt đường ống dẫn hoặc duy trì một đội sà lan đối mặt với sự phản
kháng của Việt Nam sẽ là đáng kể. Việt Nam có thể chỉ cần thách thức ý định của
TQ. Sẽ không có sự phát triển chung thực sự của khu vực này mà không có sự đồng
ý của Việt Nam.
Gây áp lực ASEAN
Tương tự, động thái mới nhất
này có thể được hiểu như là Trung Quốc gây sức ép với Việt Nam và các thành
viên ASEAN khác đồng ý các chi tiết của một Bộ Quy tắc Ứng xử mới cho biển
Đông. ASEAN hy vọng Bộ Quy tắc này sẽ ngăn chặn các tranh chấp trên biển nhưng
Trung Quốc không vội vã trong việc đưa nó thành hiện thực. Các cuộc đàm phán,
hoặc thường hơn là những đàm phán về đàm phán, đã kéo lê năm này qua năm khác.
Bế tắc mới nhất này có vẻ gần như đảm bảo sẽ làm cho ASEAN đòi hỏi một bộ quy
tắc ứng xử cứng rắn hơn để ngăn chặn những sự cố tương tự xảy ra lần nữa. Đó
không phải là điều mà Bắc Kinh mong muốn. Một lần nữa, việc triển khai giàn
khoan dường như đã gây tổn hại lợi ích lâu dài của Trung Quốc.
Chiến thuật đánh lạc hướng
Cách giải thích có lý nhất về
việc triển khai giàn khoan, và là cách duy nhất cho thấy Bắc Kinh sẽ đạt được
những gì họ muốn, là việc phát hiện mới đây rằng các lực lượng Trung Quốc đang
tham gia vào một dự án xây cất quy mô lớn trên đá Gạc Ma (Johnson Reef). Đây là
một bãi cát, chìm dưới nước khi triều cao mà lực lượng Trung Quốc chiếm lấy
bằng vũ lực vào năm 1988, một động thái kích động nên một trận đánh làm mấy
chục binh sĩ Việt Nam bị tàn sát bằng súng máy Trung Quốc. (Một đoạn video về
cuộc tàn sát này phổ biến trên YouTube.) Có suy đoán rằng Trung Quốc có ý định
biến rạn san hô này thành một căn cứ không quân. Bằng cách chuyển sự chú ý toàn
cầu và của cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vào quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc
có thể cho mình khoảng trống cần thiết để bắt đầu công trình mà không bị quấy
rối.
Tại sao?
Một ngày nào đó chúng ta có
thể phát hiện chính xác lý do tại sao phía Trung Quốc quyết định triển khai
giàn khoan cùng đội tàu đi kèm đến chỗ đó vào thời điểm này. Chúng ta biết rất
ít về cách mà những quyết định như thế được đưa ra. Các nhà quan sát đóng tại
Bắc Kinh cho rằng Bộ Ngoại giao gần như không có quyền lực trong guồng máy
Trung Quốc.
Một nhà phân tích nói với
International Crisis Group (Nhóm giải quyết các khủng hoảng quốc tế) năm 2012
rằng, Bộ này đứng đâu đó giữa thứ hạng 40 và 50 trong hệ thống tầng bậc của
guồng máy.
Quan trọng hơn nhiều là quân
đội, những bộ phận thuộc sở hữu nhà nước tạo được thu nhập lớn như CNOOC và các
tỉnh như Hải Nam và Quảng Đông. Cũng có thể là đây chính là những diễn viên đã
thúc đẩy chiến dịch quần đảo Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao có thể đã không đủ khả
năng chống lại áp lực kết hợp của họ.
Người nước ngoài có xu hướng
xác định việc hoạch định chính sách ngoại giao Trung Quốc theo hai cách. Thứ
nhất là “Trung Quốc Toàn Năng” – những hành động của một cường quốc kiên quyết
vươn lên, quyết chí đạt tới việc thống trị Đông Á, đe dọa các nước láng giềng
và phá hoại lợi ích của Mỹ trong khu vực.
Đôi khi có xu hướng giải
thích theo khuôn mẫu phương Đông về các quan chức khôn ngoan, thông thái che
giấu ý định thực sự của họ đằng sau lớp mặt nạ rất bí mật. Chúng ta có thể gọi đây là “Trung Quốc Toàn Giác”.
Nhưng bế tắc mới nhất này
cũng cung cấp bằng chứng cho một cách giải thích thứ ba. Bắc Kinh đã không tạo
được tiến bộ trong bất kỳ mục tiêu lớn hơn trong khu vực: chỉ toàn điều ngược
lại. Họ đã khó chịu, căm ghét và lo ngại các nước láng giềng và cho họ thêm lý
do để ôm lấy việc Mỹ chuyển trục sang châu Á. Cả Malaysia lẫn Indonesia đều
đang nói công khai hơn bao giờ hết về các quan ngại của họ. Có lẽ chúng ta nên
xem vở diễn này như là một trường hợp về “Trung Quốc thiếu năng lực” trên cơ sở
là việc vạch ra chính sách đối ngoại của họ thực sự là không thật tốt.
Bill Hayton là tác giả quyển
sách “Việt Nam: con rồng đang lên” (NXB Yale, 2010) và “Biển Đông và cuộc đấu
tranh giành quyền lực ở châu Á” được Yale xuất bản trong tháng 9 [năm 2010].
......./.