Chúng ta đang trả giá!
Hạn – mặn ở vùng ĐBSCL
ngày càng khốc liệt. Ngoài nguyên nhân do biến đổi khí hậu, các nước phía
thượng nguồn như Trung Quốc… giữ lại nước bằng các đập thủy điện, thì nguyên
nhân còn do chính quy hoạch, tầm nhìn của chính chúng ta!
Ở rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ, trước đây
“tài sản” quý nhất chính là lớp than bùn được hình thành do hoạt động đứt gãy
địa chất Rạch Giá – mũi Cà Mau xảy ra cách đây trên 4.000 năm. Đĩa than bùn cao
hơn mặt đất, có tác dụng giữ nước rất lớn. Như tài liệu nghiên cứu đất than bùn
ở Indonesia cho thấy, khả năng giữ nước của lớp ít phân hủy là 500-1.000% trọng
lượng khô (tương đương 1 gam của lớp ít phân hủy có thể giữ từ 5-10 gam nước).
Vào mùa mưa, nước tích lũy trong đĩa than bùn.
Suốt mùa khô, mực thủy cấp trong địa than bùn vẫn cao hơn mặt đất bên ngoài và
nước từ đó sẽ thấm ra, cung cấp cho xung quanh. Do đó, đĩa than này một thời
gian dài chính là nơi điều tiết nước và đóng vai trò đẩy xâm ngập mặn vào mùa
khô. Nếu giữ nước ngập trên 0,2 mét quanh năm thì quá trình phân hủy tự nhiên
bằng với lượng chất hữu cơ của thảm thực vật đóng góp vào (như lá cây rụng,
cành khô…). Như vậy, nếu có xảy ra cháy rừng thì lớp than bùn chỉ bị cháy một
lớp mỏng bên trên, không ảnh hưởng đáng kể đến khu rừng.
Vì lý do đó, thời chiến tranh nhiều lần Mỹ
dùng bom Napal để đốt rừng U Minh không thành công. Sử dụng biện pháp hóa học
để tiêu huỷ, cũng không đem lại kết quả “mong muốn” như trên rừng đước… Có thể
nói, do thiếu hệ thống kênh đào, lớp than bùn dày là 2 yếu tố quan trọng tạo ra
sinh thái đặc thù của U Minh, tạo nên sự oanh liệt của vùng đất này.
Nhưng sau năm 1975, hàng loạt con kênh được xẻ
ngang, dọc trong rừng nhằm giữ nước chữa cháy, tạo tuyến giao thông… Nhưng tác
động? Nước tích trong đĩa than bùn bị rút tràn xuống các con kênh, khiến mực
thủy cấp bình quân cả khu vực giảm mạnh vào mùa khô. Chúng ta cứ nghĩ đào kênh
để giữ nước mà không ngờ lại khiến mực nước hạ xuống.
Cộng thêm việc người dân trong vùng đệm đang
có khuynh hướng gia tăng tỉ lệ đất nông nghiệp, nuôi tôm… khiến nước từ vùng
lỏi mất nhanh. Thảm xanh tại vùng đệm giảm sút, gây nên tình trạng gia tăng
nhiệt độ càng khiến nước trong vùng lỏi mau bốc hơi.
Và chính những lý do này đã khiến những năm
qua, xảy ra các vụ cháy ở U Minh trong nhiều ngày chỉ vì một mồi lửa nhỏ, mất
hàng ngàn héc-ta rừng… vì ẩm độ giảm, lượng chất hữu cơ khô tích luỹ lớn trở
thành nguyên liệu cháy.
Vẫn có ý kiến cho rằng, trước đây người ta vẫn
xẻ kênh như người Pháp đã hoạch định hệ thống kênh đào cho U Minh gần như hoàn
chỉnh vào năm 1940. Nhưng thực ra, người Pháp làm vậy là với mục tiêu phân nhỏ
vùng U Minh để kiểm soát an ninh, chứ không phải để giữ nước chữa cháy! Và tác
động nguy hiểm không kém của các con kênh còn là chuyện hệ sinh thái bị chia
cắt, động vật bị co cụm theo tiểu vùng, người dân càng dễ vào rừng xâm hại…
Nhưng tác động tiêu cực nhất của việc đào hàng
loạt kênh thoát nước, rửa phèn, thoát lũ… ở vùng ĐBSCL trong những năm trước
đây, là khiến nước tiêu thoát rất nhanh! Và giờ, ở miền Tây, hạn hán và xâm
ngập mặn mỗi năm một tăng. Nước ngọt không giữ được, nên hạn hán. Và những con
sông đổ ra biển thiếu nước ngọt, nên nước biển mang dòng mặn tràn vào, ngày một
sâu, là điều dễ hiểu.
Và vì sao cứ khi có dự báo hạn hán, đâu đâu
cũng nghe phát động nạo vét kênh mương, đào thêm kênh thủy lợi. Để nước càng
rút mau thêm, hạn càng thêm hạn?
Theo GS.TS Võ Tòng Xuân, hiện tượng khí hậu
thay đổi khiến quả đất bị “hâm” nóng lên mỗi năm một cao thêm, tác động dây
chuyền là nhiều nước phải đối mặt với hạn hán gay gắt. Và nguyên nhân khiến quả
đất bị hâm nóng chính vì những hoạt động của con người như phá rừng,.. Cộng
thêm nguồn nước dần cạn kiệt vì con người khai thác nhiều nước, phục vụ việc mở
rộng sản xuất nông nghiệp…
Tại vùng ĐBSCL, nguồn nước ngọt được cung cấp
chủ yếu từ sông Mêkông. Thời gian qua, một số ý kiến đã cho rằng, hạn hán gay
gắt xảy ra trong những năm gần đây ở vùng ĐBSCL chính từ tác động của hàng loạt
con đập lớn nhỏ phục vụ thủy điện, nước tưới tiêu… được xây dựng trên sông
Mêkông, tại các nước phía thượng lưu như Trung Quốc, Thái Lan, Lào… Như các đập
nước của Trung Quốc, vừa qua giữ đến 22 tỉ m3 nước!
Vùng ĐBSCL là nơi chịu tác động trực tiếp phía
thượng lưu và điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam. Giả như chỉ cần
một cái đập mới được xây lên phía thượng lưu là ảnh hưởng ngay đến nguồn nước ở
ĐBSCL.
Tiến sĩ Dương Văn Ni, Trường đại học Cần Thơ,
cho biết, ngoài biến đổi khí hậu, những đập nước phía thượng lưu sông Mêkông
thời gian qua đã gây tác động chính là thay đổi quy luật ngập, hạn, dù khách
quan cho thấy tổng lượng nước đổ về ĐBSCL hàng năm không giảm mạnh. Giả như khi
mùa mưa bắt đầu tại Trung Quốc, thì do qua nhiều con đập giữ nước, đến ít nhất
1 tháng sau nguồn nước này mới tràn về ĐBSCL. Và theo đó, khi nguồn nước đầy,
các con đập được xả đồng loạt khiến nước lũ ở ĐBSCL lên rất nhanh.
Ở hầu hết các lưu vực sông thì các dòng chảy
tự nhiên đều bị thay đổi ở phạm vi nào đó nhằm đáp ứng nhu cầu định cư, nước
tưới, kiểm soát lũ hoặc tạo ra năng lượng. Từ đó đã phát sinh một số ý kiến cho
rằng phải có kế hoạch quản lý và phát triển bền vững các đập, công trình tưới
trên cơ sở đối thoại và thảo luận giữa các bên…
“Nhưng chính chúng ta cũng đã tự gây hại”- ông
Ni khẳng định. Nước vào mùa lũ thực ra mang nguồn phù sa, thủy sản dồi dào,
giúp đẩy xâm ngập mặn ra khỏi đồng bằng. Theo ông, nhưng chính vì quan niệm lũ
là thiên tai, phải “tống” đi càng sớm càng tốt trong thời gian qua đã phát sinh
hàng loạt công trình đê bao khép kín phía các tỉnh thượng nguồn ĐBSCL như An
Giang, Đồng Tháp. Do vậy, thay vì nước lũ được tràn đầy đồng như trước đây, thì
nay chúng bị co cụm lại theo các dòng sông và lại theo sông Mêkông rút nhanh về
các tỉnh phía hạ nguồn.
Và hàng chục năm qua, các tỉnh phía hạ nguồn
cũng ào ạt gia tăng hệ thống kênh, mương, nạo vét sông rạch để thoát lũ nhanh.
Hệ quả là nông dân phải gánh khi bắt đầu vào mùa khô: nước đã khan hiếm lại
càng rút nhanh hơn khiến hạn hán gay gắt. Và khi dòng chảy yếu đã khiến xâm
ngập mặn ngày càng tăng là lẽ đương nhiên.
“Trước đây, ở Đồng Tháp có vùng Láng Biển nước
tràn lênh láng hàng ngàn héc-ta. Vào mùa khô, nước ở nơi này vẫn lênh láng.
Nhưng rồi hàng loạt kênh rạch tiêu úng, xổ phèn… ra đời, khiến 10 năm qua nơi
này chỉ còn trong ký ức”- ông Ni dẫn chứng. Trước đây, khi ĐBSCL chưa đào kênh
rạch nhiều, khá nhiều nơi vẫn bị… ngập vào mùa khô.
Ông Ni cho rằng, điều cứu vãn trước mắt là nên
có kế hoạch khai thác các tiểu vùng đê bao khép kín, biến nơi đây thành các
“hồ” trữ nước vào mùa khô với điều kiện phải đảm bảo lợi ích của người dân
trong và ngoài các tiểu vùng.
Đê bao có thể trở thành 1 hồ chứa nước ngọt
quý giá, phân phối lại nước sản xuất, sinh hoạt cho các vùng khác. Dĩ nhiên, ở
tiều vùng trong đê bao khép kín này, chấp nhận thiệt hại đôi chút về sản xuất
nông nghiệp trong vài tháng, nhưng bù lại ta khuyến khích người dân ứng dụng
các mô hình sản xuất phù hợp như nuôi trồng thủy sản…
Hiện nay, cả vùng ĐBSCL không quy hoạch được
một nơi nào thực sự gọi là nơi trữ nước trong mùa hạn, trong khi điều kiện từ
các tiểu vùng đê bao khép kín có sẵn!
Mỗi hệ sinh thái có một cách quản lý khác nhau
và chúng ta phải phân biệt điều đó bằng những phương pháp tiếp cận hệ sinh
thái.
Chúng ta đã đối xử tàn bạo với thiên nhiên, và
giờ đã phải trả giá!
Hồ Hùng
........../.