NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO CÁC ĐƯỜNG PHỐ SÀI GÒN
TRƯỚC 1975 VÀ Ý NGHĨA CỦA CHÚNG
******
Vũ Linh Châu - Nguyễn Văn Luân
******
********
Từ lâu, tôi đã có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm
phục về việc đặt tên cho các đường phố tại Sài Gòn vào năm 1956, ngay sau khi
chúng ta dành được độc lập từ tay thực dân Pháp. Vì đây là một công việc quá
xuất sắc và quá hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công
trình do sự đóng góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban
gồm nhiều học giả, nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo…
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua
tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn Văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của
lịch sử này đã được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô Văn Phát,
Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Sài Gòn.
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường
phố Sài Gòn
Trong những năm làm việc tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn, tôi
có dịp góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc thì tại Khu Kiều
Lộ Sài Gòn Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc thì tại Khu Kiều
Lộ Sài Gòn Đông (Sài Gòn) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông
cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường thì ngập nước sau cơn
mưa, đường thì có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường,
đường thì dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc lòng
tên hơn 300 con đường.
Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có
tên Tây như:
Boulevard Charner
Boulevard Galliéni
Boulevard Kitchener
Boulevard Norodom v.v
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp
bàn giao cho Chính Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà
Đô Chánh Sài Gòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua
tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có
bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô
cùng hiếm hoi.
Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn năm 1967 (Ảnh của John Beck) |
Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm
để đặt tên đường sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên
Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để
đặt tên cho 2 con đường thì đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy
còn thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một
thời gian gấp rút thật không dễ.
Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà
Phòng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn
Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ
chức Trưởng Phòng Hoạ Đồ.
Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình
lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận.
Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các
con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những tên
đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô,
đường nào tên gì và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái
dụng ý sâu xa của tác giả.
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang
mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại
phù hợp với địa thế, và các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem
cái nhìn vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khía cạnh vừa tình vừa lý, đôi
khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài
thí dụ, theo sự suy đoán riêng của mình, bởi vì ông có nói ra đâu, nhưng tôi
thấy rõ ràng là ông có ý ấy:
* Đầu tiên là những con đường mang những lý tưởng cao đẹp
mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những
con đường hoặc công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
* Đường đi ngang qua Bộ Y Tế thì có tên nào xứng hơn là
Hồng Thập Tự.
* Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn
Nhất đến bến Chương Dương đã được đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang
qua Pháp Đình Sài Gòn. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng.
* Ba đường Tự Do, Công
Lý và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
* Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài Gòn nối từ Toà
Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật
thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với
cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
* Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần
nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là
lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm
và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống
Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
* Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng
Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài
tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
* Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi
thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
* Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư
dân là người Hoa.
* Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên
Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến
lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại
Vương vào thế kỷ 13.
* Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ lòng
cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh
Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu
cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường
trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải tìm đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy
con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh
năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Sài Gòn, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua
Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn
Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm
cao sang.
* Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú,
cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công
viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
* Trường nữ Trung Học Gia Long lớn nhất Sài Gòn thì, (trớ
trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang
tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút gì cho trường nữ
Trung Học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường
song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh
Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng
nhẹ nhàng.
* Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị
Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý, nhưng
có lý hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác
giả những câu thơ “Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa”
mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.
Ông Nhà Văn – Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc.
Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô Văn
Phát đã về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc
tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông
đã làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này.
Cũng chuyện đặt tên đường
Vua Lê Thánh Tôn đã mở mang bờ cõi nước ta từ Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đã vượt
đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, vĩnh viễn
xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi còn tiếp tục mang về cho dân
tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến Cà Mau, Rạch
Giá, Hà Tiên, Phú Quốc…
Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất
mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung
phần trù phú màu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cõi này cũng bao
gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.
Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam
hiện nay là do dòng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đã mang về cho dân tộc Việt Nam!
Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đã có
công rất lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa
Hiền Vương đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc bình định và chinh phục
vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Hòa, Long Khánh, Bà
Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Sài
Gòn… bây giờ. Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lấy tên của Ngài để đặt cho
một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào trung tâm Thành Phố Sài Gòn.
(Chế độ sau này đã thay Hiền Vương bằng tên của Võ Thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng
bị đổi thành Trần Phú…).
Loại bỏ tên của Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương
và các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài Gòn
và các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao bình dân gọi là “ăn cháo,
đá bát”.
Đấy là chưa nói tới giấc mộng… Tây Tiến chưa thành. Hai
vị trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đã mở mang bờ cõi
nước ta tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đã thiết lập thêm một Trấn mới là
Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). Phải
chăng chính vì vậy mà ngay từ khi vừa giành được chủ quyền từ tay thực dân
Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài Gòn hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất
Miên qua ngả Gò Dầu, đã được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó
là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một
nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một “Mission
unaccomplished”…
Vũ Linh Châu và Nguyễn Văn Luân
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Ai đã đặt tên cho
các đường phố Sài Gòn trước 1975?”
Theo TongPhuocHiep.com (Trang web của nhóm cựu học sinh
trường trung học Tống Phước Hiệp – Vĩnh Long)
/////////
Tiểu sử nhà văn Ngô Văn Phát:
Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong,
Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ ông học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành
Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày
còn ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, họa mười
hai bài Thập Thủ Liên Hoàn của Thương Tân Thị… Có lúc ông dạy Việt Văn tại
trường Pétrus ký Sài Gòn.
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia –
Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài
Gòn.
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí
Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này
Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique
populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen
Du (Tạp luận về Nguyễn Du).
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian
tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn.
.............../.