ĐẠO GIA TÔ
https://www.facebook.com/thong.nguyen.7374/posts/1649149555108057
************
Nguyễn Thông chú giải một vài từ cho rõ:
-Tiểu Á Tế Á: phiên âm từ tiếng Hán, tức nước Thổ Nhĩ Kỳ.
-Gia Tô: phiên âm từ Jesus (Giê Su), tên của Đức Chúa. Đạo do Đức Chúa Jesus khởi xướng còn gọi là đạo Gia Tô, hoặc đạo Thiên Chúa.
-Thần Jehovah: tức Đức Chúa Trời.
-Đệ ngũ thế kỷ: tức là thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên.
-Đệ thập thế kỷ: tức là thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên.
-Nhật Nhĩ Man: phiên âm từ tiếng Hán, tức là nước Đức.
-Dao Thủy: tức huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định).
-Bộ câu rút: là cây thánh giá có Chúa bị hành hình đóng đinh trên đó, còn gọi là cây thập ác.
-Làm dấu: Động tác theo thứ tự chỉ tay lên: trán, ngực, vai trái, vai phải; tức là tạo thành dấu thập, tưởng nhớ đến Chúa bị nạn.
-Tháng Décembre: tức là tháng 12. Ngày 25 tháng 12 gọi là ngày Giáng Sinh, kỷ niệm Đức Chúa Giê Su ra đời.
-Aoùt: tức là tháng 8.
****************
Đạo Gia Tô gốc ở Do Thái mà
ra. Nguyên dân Do Thái (Juifs) ở về phía tây Tiểu Á Tế Á, xưa nay vẫn sùng
phụng một vị thần Jehovah. Dân tin rằng thần Jehovah sáng lập nên trời đất và
tạo thành ra muôn vật, sau lại tạo ra người theo như hình dung của thần, đàn
ông thì gọi là Adam, đàn bà thì gọi là Eva, cho ở vườn cực lạc để cai quản các
giống thú vật và được ăn các thứ quả, chỉ trừ ra không được ăn quả cây táo của
thần cấm mà thôi. Đến sau, quỷ thấy người được sung sướng, mới xúi Eve ăn quả
cây táo và đem cho chồng ăn nữa. Khi ăn rồi mới biết mình trần truồng là xấu
xa. Đến lúc thần lại thăm vườn thì người ấy chạy đi trốn. Thần giận bèn đuổi
người xuống phàm trần, để cho chịu những điều cực khổ, nhưng lại hứa rằng sau
sẽ sai người xuống chuộc tội cho.
Ấy là những sự tôn tín của
dân Do Thái. Dân Do Thái bị dân Ai Cập (Egypte) áp chế bắt đi làm nô lệ, chịu
nhiều điều cực khổ. Mãi về sau mới có một ngưòi tên là Moise đem dân về xứ Gia
Lộ Tát Lĩnh (Jérusalem) làm đền thờ thần Jehovah mà theo giữ lời thập giới. Có
một đảng thầy tu giữ đền và cai quản dân. Trong bọn thầy tu thường có những
người tiên tri gọi là Prophète, bảo dân Do Thái rằng: thần Jehovah sắp sai
người xuống chuộc tội cho dân và cho dân được vinh hiển hơn dân khác.
Sau các thầy tu gọi là bọn
Pharisiens cứ vin tiếng thần ra để làm điều bậy bạ và ăn hiếp dân, bấy giờ mới
có Đức Gia Tô (Jésus) ra đời, cải lương đạo khác, gọi là đạo Thiên Chúa.
Cứ theo sách của bác sĩ Âu
châu thì Đức Gia Tô sinh tại thành Nã Tát Lặc (Nazaretb) là một tỉnh nhỏ ở xứ
Gia Lị Lị (Galliée) ở đông Thổ Nhĩ Kỳ (tức là Tiểu Á Tế Á) vào chừng năm Nguyên
thủy đời vua Hiếu Bình nhà Hán. Lịch tây kỷ nguyên, bắt đầu ngày tháng từ năm
ấy.
Sách bác sĩ lại nói: Phụ thân
Ngài là Joseph, mẫu thân Ngài là Maria, và Ngài cũng có nhiều anh em. Nhưng cứ
lời tục truyền thì bà Maria cảm thần mộng mà sinh ra Ngài, mà ông Joseph là cha
nuôi mà thôi. Tính ngài rất thông minh, trước học theo đạo Do Thái, sau thấy
bọn thầy tu làm nhiều chuyện bậy bạ hại dân thì mới lập ra môn đạo khác để cứu
đời. Mục đích đạo Thiên Chúa thì chỉ cốt dạy người ta lấy sự yêu mến tôn kính
đức Thiên Chúa làm gốc, mà sự thờ kính cốt ở trong lòng không cần gì trang sức
bề ngoài. Đối với người ta thì cốt giữ bụng từ bi nhân thứ, coi nhau như anh em
ruột một nhà, mà ai ai cũng bình đẳng cả.
Môn đồ tin theo mỗi ngày một
đông. Bọn thầy chùa đạo Do Thái sợ mất quyền lợi, mới xui quan La Mã làm hại,
song dẫu đức Gia Tô bị hại mà người tin theo lại càng nhiều. Sau này các môn đồ
lại đem đạo ấy mà truyền bá đi các nơi. Ông Saint Pierre thì sang truyền giáo
bên La Mã, ông Saint Paul thì sang truyền giáo bên Hy Lạp, rồi rải rác đi khắp
nơi, ai ai cũng tôn Ngài là con của Thiên Chúa, thay cha mà xuống cứu dân.
Trong khoảng đệ ngũ thế kỷ,
các nước bên Âu châu tôn tín đạo Thiên Chúa rất thịnh. Mở ra một tòa Giám đốc
tại kinh đô La Mã mà công cử một người làm Giáo Hoàng để coi việc giáo. Từ đệ
thập thế kỷ trở về, các nước có việc gì to cũng phải xin phép đến Giáo Hoàng.
Các vua nối ngôi, được Giáo Hoàng làm lễ gia miện (đội mũ) cho là vinh hiển lắm.
Mà quyền chính trị cũng về tay Giáo Hoàng.
Vào hồi thập lục thế kỷ, có
người Nhật Nhĩ Man tên là Mã Đinh Lộ Đắc (Martin Luther) và người học trò tên
là Ước Hàn Gia Nhĩ (người Pháp) dựng ra môn giáo mới để phản đối với đạo Thiên
Chúa, vì thế trong tôn giáo phân ra làm hai đàng đánh nhau chết hại rất nhiều.
Giáo Hoàng khi ấy quyền hành không mạnh bằng khi trước, mới tìm cách để truvền
đạo ra hoàn cầu.
Đạo Thiên Chúa truyền sang
nước ta, kể cũng đã lâu. Cứ trong Quốc sử chép thì đời Nguyên Hòa nguyên niên nhà
Lê (1523), người nước Hà Lan tên là I Nê Khu, mới bắt đầu đến các địa phương
Nam Chân, Dao Thủy (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay) giảng đạo Thiên chúa. Ở sách
Tây thì chép rằng: các thầy Dòng bên Âu châu năm 1615 đến xứ Nam kỳ. Năm 1626
thì đến xứ Bắc kỳ; các thầy ấy là người nước Pháp, nước Tây Ban Nha và người
nước Nhật Nhĩ Man.
Vậy thì đạo truyền sang nước
ta, chắc là bắt đầu là người Hà Lan, mà người các nước là tiếp theo đến sau để
truyền giáo cả.
Trong năm 1765, Giáo hội cử
thầy Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) sang giảng giáo ở các miền Xiêm La, Tây
Trúc, Cao Man. Năm 1780 thì thầy Bá Đa Lộc đến miền Biên Hòa, dựng nên nhà thờ
để giảng đạo. Năm 1783 Gia Long bấy giờ là chúa Nam kỳ, nhân vì đánh nhau với
Nguyễn Huệ bị thua phải tránh nạn, gặp Bá Đa Lộc ở Cà Mau, nói chuyện với nhau
vui lòng lắm. Gia Long mới cậy Ngài đem Hoàng tử Cảnh về cầu cứu bên nước Pháp.
Đến đời Thiệu Trị, Tự Đức thì
nước ta nghiêm cấm người theo đạo Thiên Chúa, song chẳng bao lâu vì chuyện ấy
mà gây nên mối hiềm khích với nước Pháp. Từ lúc vua nước ta và nước Pháp lập
hòa ước thì đạo Thiên Chúa lại thịnh hành ở xứ ta.
Quy thức của người theo đạo
Thiên Chúa, mỗi người phải đeo một bộ câu rút, ở nhà thì thờ tượng Thiên Chúa
và cây Thánh giá hình như chữ thập (+), tức là một thứ hình cụ khi Đức Chúa bị
nạn thay tội cho trần gian. Đeo vào mình để làm một sự kỷ niệm cho lúc nào cũng
trông thấy công đức của Chúa.
Mỗi ngày trước khi hai bữa ăn
cơm và lúc đi ngủ lúc mới thức dậy, phải chỉ tay lên trán, hai vai và ngực gọi
là làm dấu, rồi tụng một bài cầu nguyện, nghĩa là chúc tụng công đức của Thiên
Chúa mà cầu Chúa cho mình được cái lòng yêu mến Ngài mãi mãi. Mỗi một chủ nhật
và ngày lễ thì các người có đạo phải đến nhà thờ quỳ trước tượng Thiên Chúa mà
cầu kinh, đoạn rồi vào một nhà riêng quỳ trước mặt ông cố mà thú tội. Ông cố
ban cho ăn một miếng bánh thánh cho được gội nhuần ơn Chúa.
Người theo đạo chỉ được phép
lấy một vợ một chồng. Khi mới cưới, vợ chồng phải đem nhau đến nhà thờ làm phép
cưới, ông cố chúc cho một vài câu rồi rảy nước phép mà rửa tội cho. Khi sinh
con, khi chết, cũng đều đem đến nhà thờ rửa tội.
Mỗi năm có ngày thứ tư gọi là
ngày vào mùa (Cendres) và một ngày chủ nhật gọi là ngày ra mùa (Pâque). Trong
khoảng hai ngày ấy cả thảy bốn mươi ngày thì nhà theo đạo cứ ngày thứ tư và thứ
sáu phải ăn chay (kiêng thịt, còn cá và trứng thì ăn được). Nghĩa là trong
những ngày Đức Chúa bị nạn thì phải kiêng kỵ, đến ngày ra mùa là ngày Phục sinh
thì mới thôi. Còn quanh năm thì thường ngày thứ sáu bao giờ cũng phải ăn chay.
Mỗi năm về ngày hai mươi lăm
tháng Décembre là ngày sinh nhật Đức Chúa thì các nhà thờ làm lễ Noel, ngày
mười lăm tháng Aout là ngày thánh Mẫu lên trời thì các nhà thờ làm lễ
Assomption. Người có đạo đến lễ đông lắm. Lại có một ngày nhà thờ rước đi quanh
phố, gọi là lễ Fête Dieu, rước vui lắm.
Người đi tu chia làm hai thứ
: một thứ vào nhà tu, chỉ chuyên nghề tụng niệm suốt cả đời, mà cách ăn ở thì
rất khổ hạnh. Một thứ thì phải học cho giỏi khoa thần học và biết đủ mọi lễ nhà
thờ, ai thi đỗ thì mới được phép làm lễ ở nhà thờ và được cử đi làm cố, làm
giám mục, v.v..
Nước ta khi trước rất mộ nho
giáo, mà nho giáo thì trọng nhất là việc tế tự, thấy đạo Thiên Chúa chỉ sùng
bái riêng một thần, ngoài ra không lễ bái gì nữa, cho nên coi là đạo phản đối
mà sinh ra lắm sự tàn ngược. Song cứ xét cái chủ ý của đạo Thiên Chúa thì chỉ
cốt khuyên người ta phải thương yêu nhau, cũng chẳng khác gì lòng nhân thứ của
đạo nho, lòng từ bi của đạo Phật. Vậy mới biết Thánh nào cũng vậy, cũng chỉ dạy
người ta lấy sự làm lành mà thôi. Người ta không xét đến nơi đến chốn mà cứ
thấy lạ tai lạ mắt thì đem lòng hiềm nghi lẫn nhau, chẳng qua chỉ gây nên mối
họa loạn, mà hại lẫn nhau thực là điều trái với tôn chỉ của đạo giáo mình cả.
Vả lại lòng tin tưởng của
người ta nên mặc cho người ta được tự do, sao nên lấy ý riêng của mình mà ngăn
cấm, ấy lại là trái với lẽ công bằng nữa.
Bây giờ thì nước nào cũng đã
rõ cái lẽ tự do tôn giáo, đạo thịnh hay suy chỉ cốt bởi lòng người tôn tín
nhiều hay ít, chớ không còn thói ghen ghét nhau như xưa nữa.
PHAN KẾ BÍNH
(Theo Việt Nam phong tục, chương 11)
(Theo Việt Nam phong tục, chương 11)
................../.