Những nghịch lý chết người
hay bi kịch của một quốc gia
hay bi kịch của một quốc gia
Nguyễn Quang Dy
“Chính
trong những khoảnh khắc đen tối nhất, ta phải tập trung để thấy được ánh
sáng” (It is during our darkest moments that we must focus to see
the light - Aristotle)
Một số nghịch lý chết
người có thể làm chính trị suy đồi và kinh tế tụt hậu, dẫn đến
bi kịch quốc gia. Nguyên nhân chính là do hội chứng cực đoan và ngộ nhận,
vì cực đoan thường dẫn đến vô cảm và ngộ nhận thường dẫn đến vô minh. Vô cảm và
vô minh vốn là bi kịch lớn của con người, như một căn bệnh mãn tính rất khó
chữa.
Tại các nước đang chuyển đổi
(nhưng “không chịu phát triển”), cực đoan và ngộ nhận cản trở cải cách thể chế
và hòa giải dân tộc, bỏ qua những cơ hội sống còn để phát triển, làm đất nước
ngày càng suy yếu, cạn kiệt, và phụ thuộc, dễ mất độc lập và chủ quyền. Vì vậy,
muốn thoát khỏi vấn nạn đó, để “kiến tạo” và phục hưng đất nước, người Việt
phải nâng cao dân trí và đổi mới tư duy, để cải cách thể chế và dân chủ hóa.
Nhưng trong bối cảnh phân hóa
nội bộ hiện nay, ai ủng hộ và ai chống lại cải cách thể chế? Theo Lê Kiên
Thành, “Nếu những người có chức có quyền giàu lên nữa thì đất nước
này sẽ sụp đổ… Chúng ta sẽ phải đứng về một phía chống lại 1/3 chúng ta, mà 1/3
này là những người vừa có tiền vừa có quyền, những người đang được hưởng lợi từ
thể chế hiện giờ... Đó là những nghịch lý mà chúng ta đang phải đối mặt”.
Cực đoan và hận thù hay “tù
nhân của quá khứ”
Khi xem xét lại chiến tranh
Việt Nam, người ta nhận ra “một cuộc chiến sai lầm, sai lầm về địa điểm, sai
lầm về thời điểm, và sai lầm về địch thủ” (a wrong war, at the wrong
place, at the wrong time, with the wrong enemy – John Kennedy, Oct 13,
1960). Đó là một bài học lịch sử cho cả hai bên, vì ngộ nhận dẫn đến
nghịch lý chết người. Phải chăng lịch sử có thể rẽ ngả khác, nếu John
Kennedy nghe lời khuyên của George Ball (thứ trưởng ngoại giao, đã khuyên tổng
thống đừng đưa quân vào Việt Nam). Những người “thông minh tài giỏi
nhất” (the best and the brightest) cũng có thể ngộ nhận và mắc sai
lầm.
Tuy chiến tranh Việt Nam đã
kết thúc hơn bốn thập kỷ, nhưng bóng ma Việt Nam vẫn còn ám ảnh hai đất
nước, và hai thế hệ người Mỹ cũng như người Việt. Tuy hai nước cựu thù đã
bình thường hóa và trở thành đối tác toàn diện, nhưng hai cộng đồng
người Việt đến nay vẫn chưa thể hòa giải được. Thậm chí trong
cùng một cộng đồng, các phe phái cũng coi nhau như thù địch, dùng bạo lực để
triệt hạ lẫn nhau. Vì vậy mới có bi kịch “Terror in Little Saigon” và “tiếng
súng Yên Bái”, như một nghịch lý của người Việt.
Những người cộng sản cực đoan
và những người chống cộng cực đoan thực ra rất giống nhau, vì họ đều độc tài,
không chấp nhận ai nghĩ khác mình, nói khác mình. Chính họ đã tiếp
tay cho nhau, ngăn cản hòa giải và đổi mới. Chừng nào
những ân oán của hai bên chưa được hóa giải, cực đoan và hận
thù (chứ không phải ôn hòa và nhân ái) còn ngự trị trong tâm thức họ như “tù
nhân của quá khứ” thì bi kịch này còn tiếp diễn.
“Kinh tế thị trường định
hướng XHCN” hay “Frankenstein”
Suốt bốn thập kỷ sau chiến
tranh Việt Nam, tuy trải qua bao biến động trên thế giới và trong nước,
nhưng Việt Nam vẫn kiên trì định hướng XHCN, vẫn “đi tìm cái không có”
(như lời Bộ trưởng Bùi Quang Vinh). Chính là cực đoan và ngộ nhận đã
xô đẩy Việt Nam vào bãi lầy ý thức hệ, nên vẫn loanh quanh tại ngã ba
đường.
Chủ nghĩa tư bản hoang dã hay
chủ nghĩa xã hội thân hữu, về bản chất đều như nhau, đã đi đêm và đẻ
ra cái quái thai “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nay trở
thành Frankenstein đang thao túng quyền lực, làm đất nước suy yếu và tụt hậu.
Nói cách khác, các nhóm lợi ích đã trở thành “tư bản đỏ”, thao túng quyền lực
và lũng đoạn chính sách, tạo ra bất ổn vĩ mô, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia,
gây ra thảm họa môi trường, đẩy đất nước đến chỗ hỗn loạn, dễ mất chủ quyền
quốc gia và độc lập dân tộc.
Trước vấn nạn nợ công khổng
lồ, như một đám mây đen lớn đang đe dọa làm vỡ nợ quốc gia, chính phủ kiến tạo
không thể tiếp tục đầu tư tràn lan vào những dự án lợi bất cập
hại, duy trì các tập đoàn nhà nước thua lỗ và tham nhũng. Làm sao có thể
kiến tạo và chống tham nhũng nếu không đổi mới thể chế toàn diện để triệt tiêu
nguyên nhân gốc rễ? Chính phủ không thể bảo lãnh mãi cho con tàu đắm
Vinashin và các “quả đấm thép” (nợ đến 237 tỷ USD, bằng 120% GDP), trong khi
ngân sách phải “chạy ăn từng bữa”.
Liệu có “ổn định chính trị”
nếu bất ổn về kinh tế
Theo chuyên gia Vũ Quang
Việt, nợ công của Việt Nam không phải chỉ sát ngưỡng báo động 65% GDP (khoảng
94,8 tỷ USD). Nếu tính cả nợ của các doanh nghiệp nhà nước (được chính phủ
bảo lãnh) thì nợ công lên tới 210% GDP, và nợ xấu lên đến 11% GDP (khoảng 22 tỷ
USD).
Trong khi đó dự trữ ngoại hối
chỉ có 40 tỷ USD (theo Ngân hàng Nhà nước), nhưng 1/3 trong số đó là trái phiếu
chính phủ Mỹ (không khả dụng).
Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế
và Chính sách (VERP), nguồn kinh phí chi cho các tổ chức công chiếm 1,7% GDP
(khoảng 71,000 tỷ VNĐ). Trong khi đó hàng năm Viêt Nam phải trả
nợ đến hạn (20 tỷ USD năm 2015, và 12 tỷ USD năm 2016). Trong
tháng 11/2016, Chính phủ phải vay tới 17 tỷ USD để chi thường xuyên cho 11
triệu người ăn lương ngân sách và trả lãi các khoản vay đến hạn, thâm
hụt ngân sách hàng trăm ngàn tỷ VNĐ/tháng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cảnh
báo khả năng “sụp đổ tài khóa quốc gia”.
Dù Bộ Tài Chính có bán hết
vốn các doanh nghiệp lớn mà nhà nước nắm cổ phần, cũng chỉ thu về được 7 đến 15
tỷ USD, chỉ đủ chi ngân sách từ một tháng rưỡi đến ba tháng. Trong khi
đó kiều hối năm 2016 giảm 30% (khoảng 3 tỷ USD). World Bank tuyên bố chấm
dứt ODA cho Việt nam vào tháng 7/2017 (tiếp theo sẽ là ADB).
Bức tranh kinh tế hiện
nay làm người ta liên tưởng đến Venezuyela. Nếu Trung Quốc không thể
cứu Venezuyela (lạm phát tới 700%), liệu họ có thể cứu Việt Nam? Theo Financial
Times (4/2016) nợ công Trung quốc năm 2016 tăng vọt lên 237% GDP (khoảng 28
ngàn tỷ USD). Trong khi đó dự trữ ngoại hối (tính đến đẩu 2017) đã giảm xuống
còn khoảng 3000 tỷ USD, nhưng chỉ một nửa số đó là khả dụng (theo Gordon
Chang).
“Tập trung dân chủ” hay “tam
quyền phân lập”
Làm sao để “kiểm soát
quyền lực”, nếu không áp dụng “Tam quyền phân lập”? Cái gì đã tạo ra
bộ máy hành chính quan liêu khổng lồ, chồng chéo và bất cập? Làm thế
nào để “nhất thể hóa” nếu Đảng vẫn độc quyền lãnh đạo, không dựa trên
“pháp quyền” (rule of law)? Trên thế giới không có chính phủ
nào có nhiều bộ trưởng và thứ trưởng như Viêt Nam (22 bộ
trưởng và 130 thứ trưởng). Chính phủ Mỹ và Nhật cũng chỉ có 15-16 bộ
trưởng và 16 thứ trưởng. Làm thế nào để giảm chi tiêu ngân sách, nếu
Việt Nam vẫn duy trì hai bộ máy hành chính khổng lồ, với những “tổ chức quần
chúng” phi sản xuất và ăn bám?
Mô hình nhà nước
do một Đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện, theo thể chế “tập
trung dân chủ” đã lỗi thời và bất cập trước yêu cầu phát triển của kinh tế thị
trường và tiến bộ xã hội. Nếu muốn “kiến tạo” và chấn hưng đất nước, để đối phó
với những nguy cơ và thách thức mới, Viêt Nam phải “cải cách vòng hai”
bằng cách đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm cải cách thể chế chính trị và hiến
pháp, theo hướng “tam quyền phân lập”.
“Theo Tàu hay theo Mỹ”
là tâm thức đầy ngộ nhận
Trước đây Việt Nam đã phải
đối phó với nan đề “theo Liên Xô hay theo Trung Quốc”. Có lúc
Viêt Nam đã “theo cả hai” bằng cách cân bằng để tranh thủ nguồn lực
chống Mỹ (trước 1975). Có lúc Việt Nam đã theo Liên Xô để
chống Trung Quốc (giai đoạn 1979-1989). Thậm chí Việt Nam đã từng ghi vào
Hiến pháp rằng Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” (mà
Nayan Chanda chơi chữ gọi là “Brother Enemy”).
Nhưng rồi sau đó Việt
Nam lại “xoay trục” theo Trung Quốc tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16
chữ vàng”. Đó là quyết sách cực đoan do ngộ nhận về bạn thù và ý thức hệ,
mà quên mất “chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Khi Washington bắt
tay với Bắc Kinh (từ 1972) họ đã bỏ rơi Đài Loan và Nam Việt Nam, mặc cho Trung
Quốc chiếm Hoàng Sa (1974). Khi Moscow hòa hoãn với Bắc Kinh, họ cũng mặc cho
Trung Quốc đánh chiếm Gac Ma và 4 đảo Trường Sa (1988), tuy họ là “đồng minh
chiến lược” với ta. Đó là những bài học đau đớn để chúng ta đừng ngộ nhận và
ngây thơ về quan hệ các nước lớn.
Muốn độc lập dân tộc và bảo
vệ chủ quyền quốc gia, phải dựa vào sức mạnh nội lực là chính. Muốn vậy
phải hòa giải dân tộc và cải cách thể chế để “khai dân trí”, giải phóng năng
lượng yêu nước và tinh thần dân tộc, “chấn dân khí” để phục hưng đất nước.
Chính sách “cân bằng thụ động” (“đu dây” bằng nguyên tắc “ba không”) tuy cần
thiết như một sách lược (nhất thời) để đối phó tình huống, nhưng “cân bằng tích
cực” mới là chiến lược (lâu dài).
Người Việt phải học hỏi người
Đức về hòa giải dân tộc và thống nhất đất nước. Phải cải cách thể chế và
dân chủ hóa mới chấn hưng được đất nước, để đối
phó với những biến động chính trị bất thường và bất định (như Brexitism và
Trumpism). Muốn “cân bằng tích cực” với Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam phải
tăng cường hợp tác chiến lược với các cường quốc khu vực (như Nhật, Ấn Độ,
Úc) trong một khuôn khổ đối tác chiến lược mới.
“Còn Đảng còn mình” hay chuẩn
bị tháo chạy
Theo IOM (International
Organization for Migration) sau 25 năm tính từ 1990 đến 2015, đã có 2.558.678
người Việt di cư ra nước ngoài, tính trung bình mỗi năm có
khoảng 100.000 người Việt di cư. Việt Nam nằm trong “Top 10” các
quốc gia có số du học sinh nhiều nhất thế giới.
Trong tổng số trên
4,5 triệu người Việt đã di cư (tính đến 2015), số người định cư bằng
đầu tư đang tăng lên đáng kể. Chỉ riêng loại visa EB-5 (dành riêng cho các đối
tượng đầu tư vào Mỹ) đã tăng chóng mặt so với các loại visa khác (như EB-1, EB-2).
Số lượng visa EB-5 từ 6.418 suất (năm 2014) đã tăng vọt lên 17.662 suất
(năm 2015).
Đến nay, Viêt
Nam có 21,000 du học sinh ở Mỹ, trong đó đa số
là con em các gia đình quan chức cao cấp và trung
cấp. Hồ sơ Panama tiết lộ Việt Nam có tới 189 cá nhân và tổ
chức, với 19 công ty vỏ bọc được thành lập ở nước ngoài, chủ yếu là tại
các “thiên đường trốn thuế” (như Cayman và Virgin Islands). Sau khi ông
Trump thay đổi chính sách nhập cư vào Mỹ, nhiều người Việt chuyển hướng di
cư sang Canada và Australia. Người Việt Nam (cũng như người Mỹ) đang
đối mặt với quá nhiều biến số và ẩn số.
Tại hội thảo “Kịch bản Kinh tế Viet Nam 2017” (tp HCM, 9/3/2017)
tiến sỹ Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế) đã cảnh báo về tình trạng
“tẩu tán tư bản”, với số triệu phú người Việt di cư ra nước ngoài ngày
càng tăng. Ngoài dòng tiền đầu tư chính đáng ra nước ngoài, còn có dòng tiền
chạy ra ngoài bất hợp pháp theo dòng người di cư, trong đó nhiều
triệu phú là quan chức đã có sẵn kế hoạch bỏ chạy (một
khi bị truy cứu trách nhiệm). Đến nay, tổng cộng đã có 92 tỷ USD được
chuyển phi pháp ra khỏi Viêt Nam.
Lượng tiền bất hợp pháp chảy khỏi Việt Nam từ năm 2004 đến 2013. (Nguồn GFI). |
“Hoàng hôn nhiệm kỳ” hay
tranh thủ vơ vét
Các nhóm lợi ích tranh
nhau vơ vét, chia chác mọi thứ, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia. Họ
“ăn không từ một cái gì” (theo lời phó chủ tịch nước Nguyễn Thị
Doan). Hết nạc họ vạc đến xương. Sau khi đã bán rẻ Vũng Áng cho Formosa, họ
định bán nốt Cà Ná. Sau khi đã ăn hết dầu khí, than, thủy điện, bauxite,
vonphram, ruộng đất…làm rừng vàng biển bạc cạn kiệt,
họ tìm cách ăn nốt cát nhiễm mặn. Phải chăng
dự án thép Cà Ná và chủ trương khai thác cát để xuất khẩu
là “làn ranh đỏ” (red line) của thực trạng “hoàng hôn nhiệm
kỳ”?
Năm 2010, chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký văn bản cấm xuất khẩu cát nhiễm mặn. Nhưng
đến 2013, Bộ Xây dựng lại cho phép xuất khẩu cát nhiễm mặn qua hình
thức “xã hội hóa” với lý do “nhằm tiết kiệm chi phí nạo vét thông luồng”. Đây
là nhiệm vụ của Bộ Giao thông Vận tải dùng ngân sách để làm, tại sao phải
“xã hội hóa” để các doanh nghiệp khác thác cát tràn lan, tiếp tay cho các nhóm
lợi ích bán rẻ nốt tài nguyên quốc gia?
Theo phóng sự điều tra nhiều
kỳ của báo Tuổi trẻ (1-3/3/2017), hầu hết các tàu chở cát từ Phú Quốc đều đến
Singapore (đảo Tekong và Changi). Từ năm 2013 đến cuối năm 2016, Việt
Nam đã xuất 43 triệu m3 cát. Theo các hợp đồng xuất khẩu, giá bán cát chỉ
từ 0,8 đến 1,3 USD/khối, trong khi giá bán trên thực tế là hơn
4 USD/khối. Vậy chênh lệch giá đi đâu? Việt Nam không chỉ mất
tài nguyên cát, thất thu ngân sách (vì
giá bán cát trên giấy tờ là quá thấp), mà còn gây sụt
lở ngiêm trọng, và nguy hại cho an ninh quốc gia.
Theo số liệu thống kê, từ năm
2016 Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng và các địa phương (là
“chủ đầu tư”) đã phê duyệt 40 dự án nạo vét, tận thu một khối lượng cát khoảng
250 triệu m3. Dẫn đầu hoạt động “xã hội hóa” này là Bộ Quốc Phòng và chính
quyền 11 tỉnh ven biển: Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên,
Bình Ðịnh, Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh. Cuộc
chiến giành quyền nạo vét cát không chỉ dọc các tỉnh ven biển, mà còn trên các
dòng sông. Tranh chấp tại Sông Cầu giữa Bắc Ninh và Bộ GTVT là “phần nổi của
tảng băng chìm”.
Ngoài Singapore, Trung Quốc
cũng tích cực thu mua cát giá cao nhằm bồi đắp các đảo, đá mà họ
chiếm của Việt Nam. Các hoạt động nạo vét, bồi đắp các đảo nhân tạo, nhằm mở
rộng diện tích các đảo, đá mà họ chiếm đóng trái phép (như Châu Viên, Chữ Thập,
Gạc Ma, Ga Ven và Ken Nan) đã diễn ra với quy mô
lớn. Từ năm 2014, diện tích các đảo, đá mà họ chiếm tại Biển
Đông đã tăng lên 400 lần (tương đương 800ha). Vậy họ lấy cát ở
đâu? Không loại trừ doanh nghiệp của ta đã lặng lẽ bán cát cho
họ. Nếu đúng là có chuyện này, thì đó có phải là hành động phản quốc?
Không thể vừa bảo vệ chủ quyền quốc gia, vừa dung túng cho những kẻ làm tay sai
cho ngoại bang (như Formosa & MCC, Huawei & OPPO).
Như trước khi con tàu
đắm
Theo Wikileaks (6/1/2017), có
khoảng 65% quan chức cấp cao đã có kế hoạch chạy khỏi Việt Nam (một
khi có biến). Như đã thành thông lệ,
khi có quan chức tham nhũng nào bị “sờ gáy”, là lại nghỉ
phép trốn ra nước ngoài “chữa bệnh” (không biết bệnh gì).
Kèm theo dòng người di cư là dòng vốn đi theo. Chỉ tính
riêng năm 2015, đã có 19 tỷ USD chạy ra khỏi Việt Nam. Đó là hiện
tượng tẩu tán vốn hay “bỏ phiếu bằng chân”, trước thực trạng của đất nước ngày
càng bi đát như hình ảnh con tàu Vinashin đang chìm.
Bức tranh
Viêt Nam là một bản sao bức tranh Trung Quốc. Theo phó chủ
tịch nước TQ Lý Nguyên Triều (Đại Kỷ Nguyên, 30/12/2016), điều tra nội bộ trước
đại hội Đảng 18 cho thấy trên 85% quan chức cấp cao đã cho vợ con định cư, mua
nhà ở nước ngoài, chuẩn bị ra đi trước nguy cơ “vong Đảng”. Theo
Reuters, dự trữ ngoại hối đã giảm 70 tỷ USD (trong tháng 11/2016) và 41
tỷ USD (trong tháng 12/2016), nay chỉ còn 3.010 tỷ USD.
Mỹ không còn là địa
chỉ an toàn để rửa tiền tham nhũng. Liệu chính quyền Trump có
triển khai “Luật Nhân Quyền Magnisky” (mà ông Obama đã ký) nhằm cấm
nhập cảnh và đóng băng tài sản của những người vi phạm nhân quyền?
Liệu chính phủ Việt Nam có tiến hành một chiến dịch “Săn Cáo” như chính
quyền Tập Cận Bình đang làm?
Theo giáo sư Minxin Pei, chiến
dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình cho thấy tình trạng tham nhũng đã ăn sâu
vào mọi ngõ ngách của chế độ (nhất là từ thời Giang Trạch Dân). Tuy nhiên,
hoạt động chống tham nhũng vẫn chưa chạm đến cái gốc rễ quan trọng nhất là “tham
nhũng đất đai”. Có đến 90% quan chức có thể bị bắt bất cứ lúc
nào, trong khi số “quan thanh liêm” chỉ chiếm có 0,000001% dân
số. (VOA, 29/10/2016).
Chỉ cần quan sát dòng người
và dòng vốn chạy đi đâu là biết tình trạng đất nước ra sao. Dòng người di
cư ngày càng đông, gồm cả doanh nhân, trí thức, và quan chức, là dấu hiệu bất
ổn về “chảy máu chất xám” (brain drain) và “tẩu tán vốn”, làm đất nước
kiệt quệ. Đó là bi kịch của một quốc gia thiếu dân chủ, bị các nhóm lợi ích
thao túng, trì hoãn đòi hỏi cấp bách phải đổi mới thể chế, để họ tranh
thủ vơ vét nốt trước khi con tàu đắm.
NQD. 18/3/2017
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 18-3-17
......../.