CHUYỆN
CHỮ NGHĨA: MÔN ĐĂNG HỘ ĐỐI
Phần đông cho
rằng chữ “đăng” trong thành ngữ này là đèn, và “đối” có nghĩa là... câu đối;
nên nghĩa đen của “môn đăng hộ đối” được giải thích là trước cửa có treo lồng
đèn và trong nhà có bày câu đối.
Có tờ báo nọ
nhảy vào bàn luận văn tự một hồi ba trợn rồi kết là về nghĩa đen của nó, duy
chỉ người xưa may ra mới hiểu, và về nghĩa bóng thì ở thời hiện đại là quan
niệm cổ hủ sai lầm. Nhà báo xứ mình lâu nay bác đại tinh thâm, bất kể thiên
văn, địa lý, thủy triều, hải lưu, luật pháp, tâm lý, phụ khoa... thứ gì cũng
rành rẽ hơn hẳn chuyên gia, nay trong chuyện chữ nghĩa bỗng tỏ ra khiêm cung
rất mực, âu cũng là sự lạ.
Mà “môn đăng hộ
đối” là giống gì?
Thật ra, nguyên
văn nó là “môn đương hộ đối” 門當戶對, do chữ
“đương” còn được đọc là “đang” nên lâu ngày trại ra thành “đăng”, dẫn đến sự
xuất hiện vô duyên của cái đèn lồng.
Chữ "Môn" cổ. |
Chữ "Hộ" cổ. |
“Giáo sư” Nguyễn
Lân, nhà biên soạn từ điển cự phách của Bắc Việt, nổi tiếng với những công
trình cóp nhặt cách cẩu thả của người khác để vơ thành của mình. Nhưng trong
“Từ điển từ và ngữ Hán-Việt” (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002) cũng như “Từ
điển từ và ngữ Việt Nam” (Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 2000), Nguyễn Lân đã ghi chính
xác thành ngữ này là “môn đương hộ đối”. Ở đây, không phải do Nguyễn Lân tinh
thông chữ nghĩa, mà vì ông đã chép lại của một học giả miền Nam: từ 1961, trong
“Việt ngữ chính tả tự vị” (Nxb Khai Trí, Sài Gòn), Lê Ngọc Trụ đã ghi rằng
thành ngữ “môn đăng hộ đối” là do đọc sai trại chữ “đang” (đương) mà ra.
Tìm hiểu thành
ngữ chữ Hán tất phải tham cứu từ điển Tàu, trong “Thuyết văn giải tự”, bộ từ
điển quan trọng do Hứa Thận biên soạn hồi đầu thế kỷ II ghi: “môn” là cửa có
hai cánh, “hộ” là cửa một cánh. “Môn hộ” do đó là nói cái chỗ từ đó chui ra
chui vào, không phải nói nguyên cái nhà. Hãy xem tự dạng cổ của hai chữ này
(trong ảnh): “Môn” 門 có hai
cánh hai bên, và “hộ” chỉ có 1 cánh bên trái (chữ “hộ” này nay đã không còn, và
được thay bằng chữ 戶).
“Môn đương” và
“hộ đối” còn là hai chữ đi liền nhau của cùng một từ. Khi xưa, trước nhà quan
thường có những chi tiết điêu khắc đặt ngay lối ra vào, dùng trấn gia trạch
theo phong thủy, trong đó có “môn đương” và “hộ đối”.
Vào đời Hán, nhà
quan thường đặt đôi trống bằng đá trước cửa (do tiếng trống vang dội uy nghiêm
nên được cho là tượng trưng của sấm sét, có hiệu dụng xua đuổi tà ma xui rủi),
đôi trống đá này gọi là “môn đương”.
"Môn đương" có hình dạng cái trống. |
Không phải nhà
ai cũng được phép dùng môn đương, mà phải quan lớn từ tam phẩm trở lên mới được
dựng cửa hai cánh và bày nó. Quan văn thì môn đương có hình tròn, quan võ thì
môn đương có dạng vuông. Quan tòng tam phẩm thì có hai môn đương, chánh tam
phẩm được bốn, nhị phẩm được sáu, nhất phẩm được tám; và duy chỉ cung vua mới
được bày chín môn đương. Do đó, cứ đếm môn đương là biết nhà của đại quan cỡ
nào, và căn cứ vào hình dạng của nó mà suy ra là quan văn hay võ.
Quan từ tòng tam phẩm trở xuống chỉ được làm cửa một cánh, ở
thanh đà phía trên khung cửa được đặt đôi trụ hình tròn nhô ra khoảng một tấc,
gọi là “hộ đối”. Hộ đối tượng trưng cho nam đinh, đặt trên cửa là ngụ ý gia tộc
hưng vượng. Tùy phẩm hàm mà có hộ đối nhiều ít khác nhau.
Có 4 "hộ đối": đây vốn là nhà quan lục phẩm. |
“Môn đương hộ
đối” do đó có nghĩa đen là sự phân biệt quan chức cao thấp, và nguyên nghĩa
không phải nói nhà có “môn đương” phải kết thân với nhà có “hộ đối”, mà là con
nhà trọng thần có môn đương thì chỉ nên phối ngẫu với nhà có môn đương; và
tương tự, con em nhà quan nhỏ chỉ có hộ đối thì chỉ nên gả cho nhà có hộ đối;
chứ môn đương không thể cùng hộ đối cưới gả lộn xộn.
Tức là thành ngữ này có hai vế, lâu nay nhiều người vẫn tưởng là
hai vế này sẽ "cưới" nhau, nhưng thật ra lại là tách biệt, mỗi vế tự
tìm đối tượng bằng vai phải lứa với nó.
Bởi theo nhận
định của người xưa, vợ chồng về căn bản phải có cùng hệ quy chiếu mới có thể
hòa hợp lâu bền. Người không cùng đẳng cấp sẽ có quan điểm bất đồng, dễ tạo nên
xung đột khiến đời sống hôn nhân trở nên trục trặc, thành gánh nặng trong đời.
Tất nhiên, người
ta có thể dẫn ra trăm nghìn trường hợp riêng biệt để bác bỏ quan niệm này,
nhưng đừng quên: trong tình yêu-hôn nhân, chết vì nhau vẫn dễ hơn là phải sống
trọn đời bên nhau.
Bối cảnh văn hóa, giáo dục khác nhau của
hai gia đình sẽ dẫn đến hành xử khác nhau của mỗi người trong đôi lứa, những
tập quán-sinh hoạt khác nhau hình thành tính cách khác biệt đến nỗi nhiều khi
trở thành xa lạ khó hiểu với nhau, điều này gây những cú sốc nghiêm trọng trong
cuộc hôn nhân. Trong tiểu thuyết “Trống Mái” của Khái Hưng, cô Hiền tiểu thư đã
không thể đến với anh Vọi chính vì lẽ đó.
......../.