MYANMAR - LÀ NHƯỢC TIỂU NHƯNG KHÔNG LÀM CHƯ
HẦU!
Manh Kim
Ai đã mở cửa để đưa Tổng thống Mỹ Barack
Obama vào Myanmar trong chuyến công du lịch sử ngày 19-11-2012? Ai mở đường đưa
Myanmar đến cuộc bầu cử dân chủ tự do đầu tiên sau 25 năm vào 3 năm sau, ngày
8-11-2015? Ý chí lãnh đạo là điều không thể phủ nhận nhưng điều quan trọng nhất
khiến Myanmar chọn con đường dân chủ chính là ý chí thoát Trung!
Điều gì đã khiến Myanmar thay đổi tư duy
đối ngoại khi can đảm quyết định tách khỏi quỹ đạo tưởng chừng bất di dịch với
Trung Quốc để ngả theo trục phương Tây? Chính là sự tái nhận thức sáng suốt về
quyền lợi và chủ quyền quốc gia. Hơn nửa thế kỷ được “bảo kê” bởi Bắc Kinh,
Myanmar đã ngậm đắng nuốt cay chịu nhiều thiệt thòi. Trung Quốc ngày càng gây
sức ép thao túng kinh tế và vơ vét tài nguyên Myanmar, từ dầu khí, đồng, gỗ
teak, đá quí đến sản vật nông nghiệp... Họ mua vô số đất đai để làm nông trại
nhưng thuê mướn nhân công từ Trung Quốc. Nói cách khác, đất Myanmar dần được
“chuyển quyền sở hữu” sang người Trung Quốc. Dân Trung Quốc tràn xuống cố đô
Mandalay (thành phố lớn thứ hai Myanmar) nhiều đến mức cư dân địa phương có câu
nói đùa rằng “Chỉ cần dân Tàu khạc nước dãi thì cũng đủ ngập để cho người
Mandalay bơi rồi!”.
Trung Quốc đổ rất nhiều tiền với vô số dự
án đầu tư vào Myanmar. Tháng 9-2010, Bắc Kinh tuyên bố cho vay 4,2 tỉ USD với
lãi suất zero trong 30 năm để “giúp” Myanmar xây đập, đường xá, hỏa xa và phát
triển công nghệ thông tin. Tuy nhiên, “chơi” với Bắc Kinh, Naypyidaw chỉ nhìn
thấy thiệt. Họ thấy rõ thủ đoạn “thả con tép bắt con tôm” của Trung Quốc. Tháng
3-2010, tờ Nhân Dân nhật báo (Trung Quốc) cho biết mậu dịch song phương hai
nước đạt 2,9 tỉ USD vào năm 2009, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước và từ (gần
bằng) zero vào cuối thập niên 1980. Tuy nhiên, cái gọi là “song phương” thực
chất hầu như chỉ là một chiều: năm 2009, xuất khẩu Trung Quốc sang Myanmar đạt
2,3 tỉ USD nhưng xuất khẩu ở chiều ngược lại chỉ vỏn vẹn 646 triệu USD (Asia
Times 19-10-2011)...
Nói thêm một chút về địa chính trị. Là nước
lớn thứ hai Đông Nam Á với 1/3 (trong tổng chu vi 1.930 km) hình thành nên một
bờ biển liên tục chạy dọc vịnh Bengal và biển Andaman, Myanmar đóng vai trò như
một ngã tư chiến lược, về biển lẫn đất liền, tạo thành một điểm kết nối giữa
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nắm được Myanmar là nắm được một ưu thế địa chính
trị quan trọng. Trung Quốc đã nhìn thấy tầm chiến lược địa chính trị Myanmar,
nơi có biên giới tiếp giáp với họ dài đến 2.000 km, từ rất lâu. Suốt thập niên
1960 rồi 1970, Trung Quốc luôn phủ bóng lên lịch sử Myanmar.
Đầu thập niên 1991, Trung Quốc thậm chí đưa
cố vấn quân sự sang nước này. Từ ảnh hưởng chính trị, họ bắt đầu tạo ảnh hưởng
kinh tế. Như bài viết trên Asia Times (19-10-2011) của Bertil Lintner (nguyên
phóng viên Far Eastern Economic Review, tác giả một số quyển sách về Myanmar),
từ thập niên 1980, Trung Quốc đã có ý định xây con đập Myitsone. Điều này đã
thể hiện trong một bài viết mang tựa “Mở rộng về phía Tây Nam – ý kiến một
chuyên gia”, đăng trên tờ Beijing Review số tháng 9-1985. Bài viết này đề cập
khả năng tìm một lối ra cho con đường mậu dịch đối với các tỉnh Nam Trung Quốc
(Vân Nam, Tứ Xuyên) vốn bị “khóa” cô lập trong đất liền bởi yếu tố địa lý, bằng
cách khai thông ngả Myanmar để ra Ấn Độ Dương. Bài viết cũng nhắc đến việc xây
các tuyến hỏa xa Myitkyina và Lashio ở Đông Bắc cũng như sông Irrawaddy để làm
tuyến vận chuyển cho hàng xuất khẩu Trung Quốc. Đến thập niên 1990, Myanmar đã
gần như trở thành một tỉnh của Trung Quốc, khi được Bắc Kinh tập trung đầu tư
với vô số dự án hạ tầng.
Mục tiêu Bắc Kinh là biến Myanmar thành một
bàn đạp vệ tinh, một vùng đệm giúp hỗ trợ phát triển kinh tế cho các tỉnh Tây
và Nam Trung Quốc. Nói cách khác, đầu tư hạ tầng cho Myanmar là đầu tư cho
tương lai phát triển cho chính khu vực phía Nam và Tây Trung Quốc, để không chỉ
có thể giúp các tỉnh này san bằng khoảng cách thu nhập với các tỉnh giàu có
phía Đông của họ mà còn tạo nên ưu thế cạnh tranh kinh tế với láng giềng Ấn Độ.
Đó là một phần của “chính sách hai đại dương” mà giới chính trị học thuật Trung
Quốc cổ súy (phải làm chủ cả Thái Bình Dương lẫn Ấn Độ Dương). Thế là loạt dự
án hạ tầng bắt đầu hình thành, từ một xa lộ dẫn đến một hải cảng mới toanh trị
giá nhiều triệu đôla, phục vụ việc xuất khẩu hàng sản xuất ở các tỉnh phía Tây
và Nam Trung Quốc; đến một tuyến ống dẫn hơn 1.600 km đưa dầu Trung Đông và
châu Phi đến các nhà máy lọc ở Vân Nam; đến một tuyến ống dẫn nữa đưa khí đốt
Myanmar đến thắp sáng cho Côn Minh và Trùng Khánh; đến hơn 20 tỉ USD đầu tư cho
một tuyến hỏa xa cao tốc giúp việc đi lại xưa kia mất hàng tháng nay có thể chỉ
còn không đến một ngày; rồi đến năm 2016, sẽ có một hệ thống đường sắt đi suốt
từ Yangon đến Bắc Kinh hoặc thậm chí tới Delhi rồi từ đó sang châu Âu…
Quan trọng hơn cả là việc sử dụng Myanmar
làm trạm trung chuyển dầu hỏa từ Trung Đông và châu Phi vào sâu trong nội địa
Trung Quốc, giúp né được “cửa ải” Malacca. Do lệ thuộc tuyệt đối nguồn dầu nước
ngoài với 80% dầu nhập được đưa về ngang Malacca, một trong những eo biển nhộn
nhịp nhất thế giới mà nơi hẹp nhất chỉ rộng 2,7 km, Trung Quốc rất lo sợ một
khi xảy ra xung đột, Malacca có thể bị đóng cửa và nguồn cung ứng dầu bị ách
tắc. Cho nên, bằng mọi cách phải thiết lập được tuyến ống dẫn ngang Myanmar.
Một cách tổng quát, trước khi xảy ra cú bắn
pháo hiệu của Tổng thống Thein Sein vào tháng 9-2011 (về việc tạm ngưng xây đập
Myitsone), hay nói chính xác hơn là trước khi Naypyidaw thay đổi quan điểm đối
ngoại, Myanmar là sân sau của Bắc Kinh, là đất nhà của hàng chục ngàn di dân
Trung Quốc, là thị trường chuyên tiêu thụ hàng hóa Trung Quốc, là nơi giới
doanh nghiệp Trung Quốc mặc sức tác oai tác quái. Nếu nói không quá thì sinh
mạng kinh tế Myanmar gần như hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc.
Một sự nhìn nhận lại vai trò và ảnh hưởng
Trung Quốc đã âm thầm diễn ra. Năm 2004, theo bài viết của Bertil Lintner trên
YaleGlobal (5-11-2012), trung tá Aung Kyaw Hla – nhà nghiên cứu thuộc Học viện
quốc phòng Myanmar – bắt đầu thực hiện một khảo sát chi tiết. Bản báo cáo tuyệt
mật dày 346 trang này, với tựa “Một nghiên cứu về quan hệ Myanmar-Hoa Kỳ”, đã
phác họa những chính sách bắt đầu được áp dụng nhằm có thể cải thiện quan hệ
với Washington đồng thời giảm lệ thuộc Bắc Kinh. Nội dung báo cáo nói rằng,
việc xem Trung Quốc là một đồng minh ngoại giao và nhà bảo trợ kinh tế đã tạo
ra một “tình huống khẩn cấp” đe dọa sự độc lập quốc gia. Báo cáo viết rằng, chỉ
bằng cách cải thiện quan hệ với Mỹ, Myanmar mới có thể tiếp cận nguồn hỗ trợ
tài chính từ Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế, giúp đất nước lần hồi
thoát khỏi “chủ nghĩa khu vực”, nơi họ phải lệ thuộc vào ý chí và quan hệ với những
láng giềng trực tiếp trong đó có Trung Quốc, để “bước vào một kỷ nguyên mới của
toàn cầu hóa”…
Có thể tóm gọn lý do khiến Myanmar từ bỏ
“hũ mật Trung Quốc” để uống “chén đắng phương Tây” - nếu nhìn ở góc độ thường
được xem là “an toàn chính trị” đối với một chế độ – qua một nhận định của Nay
Zin Latt, cố vấn chính trị của Tổng thống Thein Sein: “Trước đây, muốn hay
không, chúng tôi phải chấp nhận tất cả những gì mà Trung Quốc đề nghị. (Bây
giờ), khi lệnh cấm vận được (phương Tây) tháo dỡ, điều đó sẽ tốt hơn cho mọi
người ở Myanmar”. Nói cách khác, Myanmar hiểu rằng, chỉ với thiện chí thật sự
cải tổ theo đường hướng có lợi dân tộc, họ không chỉ có thể tự cởi trói và
thoát được “án” cấm vận mà nhờ đó còn hạn chế lệ thuộc Trung Quốc, về lâu dài.
Ý nghĩa lớn nhất
trong câu chuyện dân chủ của Myanmar là vấn đề địa chính trị không phải là rào
cản lớn nhất để lấy đó làm cái cớ biện dẫn cho sự cúi đầu làm chư hầu. Chỉ 19
năm sau khi lập quốc từ bàn tay không với một nhúm người tha phương từ khắp nơi
thế giới quần tụ lại, không có gì trừ ý chí dân tộc mãnh liệt, Israel đã kiên
cường chống chỏi sự vây bủa khốc liệt và chiến thắng trước những con hổ dữ Arab
trong cuộc chiến 7 ngày. Và đến nay, Israel vẫn luôn bị đe dọa và vẫn tiếp tục
lớn mạnh hơn trong sự đe dọa thường trực đó, bất luận yếu tố lịch sử lẫn yếu tố
địa lý vô cùng phức tạp, bởi còn xen lẫn bởi yếu tố tôn giáo. Đừng lấy cái gọi
là “lời nguyền địa lý” và “lời nguyền lịch sử” để tự gánh lên vai cái lối ngụy
biện hàm hồ về việc “chúng ta không còn con đường nào khác là phải chấp nhận lệ
thuộc Trung Quốc!”. Đó là cái não trạng mặc cảm khiếp nhược của những kẻ hèn
hạ, bao biện cho tư duy chính trị của những kẻ bán nước hèn hạ bội lần. Làm thế
nào có thể thoát Trung khi còn có kiểu suy nghĩ tăm tối như vậy? Làm thế nào có
thể thoát Trung khi mà vẫn không chấp nhận một nền chính trị dân chủ như
Myanmar hay Philippines, để người dân có thể bày tỏ ý nguyện thoát Trung và
nhìn thấy được kết quả từ ý chí thoát Trung đồng nhất của dân tộc thông qua lá
phiếu?
……….
Một phần bài viết này trích từ hồ sơ hai kỳ khoảng 5.000 từ đã đăng vào năm 2012 dưới bút danh “Nguyễn Cao Trí” (tên của con trai tôi).
……….
Một phần bài viết này trích từ hồ sơ hai kỳ khoảng 5.000 từ đã đăng vào năm 2012 dưới bút danh “Nguyễn Cao Trí” (tên của con trai tôi).
......./.