CÁC ĐỊA DANH MIỀN NAM
https://cadaotucnguvietnam.wordpress.com/2011/07/18/cac-d%E1%BB%8Ba-danh-mi%E1%BB%81n-nam/
Tác giả: Trần Nguơn Phiêu
Miền
Nam Việt Nam là miền đất mới với lịch sử vài trăm năm so với đất Bắc “ngàn năm
văn vật”. Các địa danh ở miền Bắc thường mang những tên Hán Việt như Thăng
Long, Hà Nội, Lạng Sơn, Sơn Tây, Hòa Bình… Miền Trung có Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên, Bình Định… Miền Nam, nơi định cư của những người phải bỏ các xóm
làng cũ từ miền ngoài vào khai quang để tìm cơ hội mới lập nghiệp, nên các địa
danh do họ đặt tên có nhiều đặc thù, khác với các địa danh Trung Bắc.
Người
Việt vào Nam khẩn hoang vẫn mang theo mình nền văn minh lúa nước nhiều đời của
dân tộc. Tuy đất ở miền Nam vào thời bấy giờ còn rất hoang vu nhưng họ đã thấy
đây là một vùng có tiềm năng trong tương lai về nông nghiệp, một “địa cuộc” tốt
(“địa cuộc”, danh từ do Trịnh Hoài Đức viết đầu tiên trong Gia Định thành Thông
chí).
Làng
mạc lúc đầu thường được bố trí sao cho thích hợp với việc làm ruộng nước. Nghề
làm ruộng là một việc chăm lo lúa không kể ngày đêm, giờ giấc. Vì thế nên nhà
không thể cất xa thửa ruộng và cần phải có nước uống cho gia đình. Nơi tiện lợi
nhất để chọn nơi cất nhà phải là nơi tương đối cao ráo. Giồng là những nơi đất
cao được ưa chuộng để lập xóm làng. Nơi đây khi đào giếng lại có được nước ngọt
để sinh sống. Nhìn trên bản đồ, giồng ở miền Nam là những lằn song song, hết
giồng tới nước, dọc theo sông Tiền và sông Hậu. Địa danh các nơi đây đã được
lưu truyền qua nhiều đời như Giồng ông Tố gần Sài Gòn, đất Ba Giồng trù phú
miền Mỹ Tho, giồng Càng Long, giồng Cầu Kè, giồng Cầu Ngang, giồng Tiểu Cần,
giồng Chùa Chim ở Trà Vinh, giồng Vũng Liêm, giồng Trôm ở Bến Tre, giồng Riềng
ở Rạch Giá…
Vùng
đất cao, nhỏ hơn giồng được gọi là gò, cũng được ưa chọn làm nơi cư ngụ như Gò
Vấp gần Sài Gòn, gò Bắc Chiên trên con đường Sài Gòn lên Nam Vang, gò Đen vùng
Tân An quê hương của nhà cách mạng Nguyễn Văn Tạo, gò Dưa gần Thủ Đức, gò Lũy
hay gò Lữ vùng Cai Lậy, Gò Dầu Hạ gần Tây Ninh, Gò Quao, Gò Công…
Việc
trao đổi hàng hóa, mua bán phẩm vật ở các nơi đông dân cư đưa đến hình thành
các chợ. Sài Gòn được biết ngày xưa với danh xưng Chợ Bến Thành. Địa danh Sài
Gòn có nhiều giả thuyết. Có thể do phiên âm của tiếng Prei-kor(rừng cây bông
gòn) hoặc của tiếng Prei-Nokor(đô lâm hay hoàng lâm) vì đây có tư dinh của Phó
vương Cao Miên. Một giả thuyết khác là năm 1778, người Minh hương còn sống sót
sau khi quân Nguyễn Huệ tàn sát dân Cù lao Phố ở Biên Hòa họ phải rút về đây
sống dọc kinh Tàu Hủ. Để ngăn nước họ đã xây bờ gạch cao dọc kinh. Bờ gạch này
được họ gọi là Thày-ngòn (Đê ngạn). Người Pháp phiên âm ra Sài Gòn. Thêm một
thuyết nữa là Sài Gòn có thể do phiên âm của Tây cống, nơi nhận cống lễ của các
đời vua Cao Miên dâng cho vua Việt Nam. Khít bên Sài Gòn là Chợ Lớn với các
tiệm buôn của người Hoa, Chợ Cũ Sài Gòn, Chợ Quán, Chợ Cầu Ông Lãnh, Chợ Rẫy,
Chợ Bà Chiểu Gia Định, Chợ Bà Điểm, Chợ Bà Hom, Chợ Bà Quẹo..; Chợ Lách ở Vĩnh
Long. Chợ Đệm ở Tân An quê của “hung thần” Nguyễn Văn Trấn người đã theo lịnh
Trần Văn Giàu thủ tiêu bao nhà ái quốc miền Nam, Chợ ông Văn, Chợ Gạo ở Mỹ Tho
nơi các ghe lúa từ Lục Tỉnh tập trung xay ra gạo để đưa vào Chợ Lớn- Sài Gòn;
Chợ Dinh gần Nha Mân…
Đồng
bằng sông Cửu Long là nơi sông rạch chằng chịch nên các bến là nơi quan trọng
để ghe thuyền có nơi thuận tiện trao đổi hàng hóa. Bến Nghé có thể là bến lớn
đầu tiên trong Nam vì dân cố cựu vẫn gọi Bến Nghé là tên cũ của Sài Gòn. Ngoài
ra còn bao nhiêu bến như Bến Tre hoặc Bến Tranh, Bến Lức ở Mỹ Tho. Thủ Dầu Một
có Bến Cỏ. Biên Hòa có Bến Cá vùng Tân Triều, nơi sản xuất bưởi ổi danh tiếng,
Bến Gỗ thuộc Biên Hòa quê hương của cố Trung tướng Đỗ Cao Trí…
Một
danh từ khác đặc biệt ở miền Nam là nơi các cửa sông rạch đổ ra các sông lớn
hay sông cái, tên rạch thường mang chữ “cái” đứng đầu. Việc này có thể do chữ
“ngã cái”, tức ngã đổ ra sông cái. Vì được gọi tắt nên gọn lại chỉ còn chữ
cái?. Các nơi nổi tiếng gồm có: Cái Bè tỉnh Mỹ Tho với loại cam Cái Bè lớn và
ngon thơm, Cái Mơn với cây trái nổi tiếng, Cái Nhum với Nhà Dòng Cái Nhum nơi
đào tạo các thầy giảng Thiên Chúa Giáo, Cái Nước ở Cà Mau, Cái Môn nơi đồn binh
của Quản Trần Văn Thành án ngữ căn cứ chống Pháp ở Láng Linh, Cái Cối, Cái Lớn
ở Rạch Giá, Cái Dầu thuộc Châu Đốc. Cái Sắn là vùng dinh điền rộng lớn miệt
Rạch Giá. Cái Vồn thuộc Cần Thơ đã nổi tiếng một thời khi Tướng Hòa Hảo Năm Lửa
đặt bản doanh nơi đây. Cái Tàu là con sông nối với sông Ông Đốc của Cà Mau.
Vùng đất giữa hai con sông Cái Tàu và sông Ông Đốc cùng với bờ biển Vịnh Thái
lan tạo một thể hình tam giác tức vùng U Minh Hạ. Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ
giữa Mỹ Thuận và Sa Đéc là hai con rạch khác với sông Cái Tàu ở Cà Mau. Riêng
Cái Răng ở Cần Thơ là do từ tiếng Miên “kran”, loại lò nấu củi nắn bằng đất
sét. Người Việt phát âm từ karan biến ra Cái Răng. Nơi đây người Thổ chuyên làm
loại “cà ràng ông Táo” ở Xà Tón Tri Tôn chở ghe theo Sông Cái đến đậu nơi này
để bán.
Giao
thông đường thủy còn có các rạch nhỏ. Đây là đặc điểm của miền Hậu Giang. Rạch
đưa nước từ các sông cái vào các ruộng lúa. Nước rạch chảy theo thủy triều chớ
không chảy theo độ nghiêng của đất: nước lớn thì chảy từ sông cái vào ruộng,
nước ròng thì từ ngọn rút ra sông. Từ Thốt Nốt lên chợ Long Xuyên trên khoảng
đường 19 cây số có thể đếm đến 30 con rạch cắt ngang bờ sông Hậu! Tên các rạch
thì nhiều vô số kể. Thường chỉ có người địa phương mới biết chắc các vị trí
ngoại trừ các rạch danh tiếng trong lịch sử như Rạch Gầm là nơi Nguyễn Huệ đã
tiêu diệt các hải thuyền của quân Xiêm. Tên rạch thường lấy tên các thảo mộc
mọc theo rạch như Rạch Chanh, có khi còn được gọi là kinh Bà Bèo (Nơi đây toàn
là bàu và bèo, dân chúng nói nhanh nên sau thành “bà bèo”. Thật ra theo các
nghiên cứu, không có bà nào tên Bèo ở nơi này). Rạch Chanh còn có tên chữ nho
là Đăng Giang với sự tích Nguyễn Ánh trên đường bị quân Nguyễn Huệ đuổi bắt
phải cởi lưng trâu vượt rạch vì nơi đây ngày xưa đầy cá sấu. Đời sau lại đặt
truyền thuyết “vua nhờ cá sấu đưa qua sông” và đặt lò sứ bên Trung Hoa làm
những bộ chén trà “Ngư Gia độ Hoàng Gia, Âm tinh ngộ đế tinh”! Rạch Chiết nối sông
Đồng Nai qua sông Sài Gòn. Rạch Choại vùng Biên Hòa(choại là một loại mây dùng
bện sáo). Rạch Lá vùng Gò Công, rạch Thốt Nốt vùng Thất Sơn, rạch Xoài Mút vùng
Mỹ Tho, Rạch Giá tên dân giả của tỉnh Kiên Giang( giá là một loại cây tràm,
bông trắng, ong hút mật làm ra loại sáp rất trắng. Loại sáp này ngày xưa phải
nạp ra Huế gọi là “thuế bạch lạp”). Rạch Dừa ở Hà Tiên. Rạch Gỗ Đền vùng An
Giang. Ngoài việc đặt tên rạch theo các loại cây, rạch nhiều khi được đặt tên
theo các cơ cấu đất đai hay theo tên các nhân vật được biết tiếng. Đó là trường
hợp như Rạch Sỏi ở Rạch Giá, Rạch Cát vùng Chợ Đệm nhưng tên rạch cát cũng còn
thấy ở nhiều nơi như Rạch Cát ở Biên Hòa. Vùng Kiến Phong có con rạch tên ngộ
nghĩnh là rạch Cái Thia. Biên Hòa có Rạch Lá Buông, Rạch Ông Lớn, Rạch Ông Nhỏ
(chảy từ rạch Ông Lớn vô Chợ Lớn), Rạch Nước Lộn trổ ra vàm sông lớn Mô Xoài.
Mỹ Tho có rạch Ông Hổ nơi chôn tổ tiên của Tả quân Lê Văn Duyệt. Vùng Mộc Hóa
còn có con kinh tên Kinh Ông Lớn nối liền kinh Lagrange ra sông Vàm Cỏ Tây. Ông
Lớn đây là Thiên hộ Dương anh hùng kháng Pháp. Rạch Thị Nghè ở Sài Gòn thời
trước được gọi Rạch Bà Nghè. Bà tên Nguyễn Thị Khánh con của Thống xuất Nguyễn
Cữu Vân. Bà đẹp duyên với một ông Nghè ở Thạnh Mỹ tây thuộc mé bên kia rạch.
Ông Nghè mỗi ngày phải lấy đò qua rạch nên bà ra công xây cầu cho ông đi làm
việc. Cầu được gọi là cầu Bà Nghè, con rạch cũng được dân chúng gọi là rạch Bà
Nghè. Người Pháp sau đặt tên là Thị Nghè. Có lẽ vì kị không dám kêu tên nên dân
chỉ dùng chức tước. Trong thành phố Sa Đéc có rạch Ông Nhiêu là một chức quan.
Vị này là cố của vợ tác giả bài viết này. Vì đất ở đây bị sụp lở từ Sông Tiền
vào nên nay rạch Ông Nhiêu đã biến mất. Ở bờ phía Nam của sông Tiền tỉnh lỵ Sa
Đéc có sông Sa Đéc với các rạch tên rất “Nam Kỳ” như rạch Nàng Hai, ngã ba Nước
Xoáy, chợ Cồn, rạch Đất Sét… Một trong những sông quan trọng miền Cà Mau có tên
Sông Ông Đốc, có thể là một chức tước thay vì là tên họ? Hai con rạch khác tỉnh
Kiến Phong ở tả ngạn sông Tiền là Đốc Vàng Thượng và Đốc Vàng Hạ. Đốc binh Vàng
và chưởng binh Lễ đã toàn thắng liên quân Xiêm-Cao Miên ở Cù Hu năm 1837 nhưng
cả hai đều tử trận! Đốc Vàng Hạ là nơi Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đã bị Việt Minh ám
hại năm 1946.
Nói
về sông rạch phải kể đến vàm. Miền nam có Vàm Cỏ là sông lớn chảy từ cửa Soài
Rạp đến chợ Xà bang mới chia thành hai nhánh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Hà Tiên
có Vàm Cậu. Long Xuyên có Vàm Cống. Ngọn rạch từ giữa rừng Sác ra sông Soài Rạp
mang tên Vàm Sác. Vàm Nao là con sông ăn thông từ sông Tiền qua sông Hậu giữa
Long Xuyên và Châu Đốc. Đây là nơi năm 1787, Nguyễn Ánh hội binh các Trấn để
đánh Tây Sơn.
Sông
Cửu Long là một sông dài trên 4000 cây số bắt nguồn từ Tây Tạng. Đến miền Nam
sông Cửu Long chia làm hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, trước khi đổ ra biển
qua chín cửa. Bắt đầu là Cửa Tiểu là cửa thứ nhất kể từø Sài Gòn kể xuống. Đây
là nhánh thứ nhất chảy ngang thành phố Mỹ Tho rồi đổ ra Nam Hải. Nhánh thứ hai
sông Tiền đổ ra Cửa Đại. Các nhánh sông Tiền khác đổ ra biển gồm có cửa Hàm
Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Ba Lai, cửa Cung Hầu (còn được gọi tên khác là cửa Cồn
Ngao). Sông Hậu đổ ra Nam Hải bằng cửa Ba Thắc cạnh cù lao Dung, ở giữa hai bên
là cửa Tranh Đề (còn có tên là Trấn Di) và cửa Định An. Ngoài chín cửa của sông
Cửu Long còn các cửa khác như cửa Bãi Ngao hướng nam tỉnh Vĩnh Long. Thượng Tân
Thị có bài thơ:
Đứng
ngó quanh về phía Bãi Ngao,
Một trời, một biển, một cù lao…
Một trời, một biển, một cù lao…
Về phía
Tây Nam lối 100 dặm có cửa Gành Hào là một nơi có nhiều thổ sản như mật ong,
sáp trắng…và thủy sản cá cua rất dồi dào. Rạch Gành Hào là con sông hợp lưu với
sông Ông Đốc chảy ngang Cà Mau để trổ ra Nam Hải. Cà Mau còn có Cửa Lớn một con
sông bắt nguồn ở Đầm Dơi chảy ngang Năm Căn rồi đổ ra Nam Hải ở vàm Cửa Lớn.
Một sông trùng tên Cửa Lớn khác của Cà Mau là con sông nối liền sông Bảy Háp và
sông Tràm Chim và đổ ra eo biển Cà Mau. Vùng Cà Mau còn cửa Bồ Đề chảy ra Nam
Hải và cửa Ông Đốc chảy ra Vịnh Thái Lan. Sông Ông Đốc trong lòng Cà Mau chia
thành hai nhánh: một chảy ngược nối với rạch Cái Tàu đổ ra Vịnh Thái Lan, nhánh
kia nối với sông Gành Hào chảy ra Nam Hải. Cửa Bồ Đề và cửa Ông Đốc là nơi các
ghe, tàu từ Bắc Việt đổ bộ vũ khí, đạn dược để tiếp tế cho chiến trường miền
Nam. Các tàu này từ hải phận quốc tế chờ lúc thuận tiện, tránh né tàu tuần Hải
Quân miền Nam để lén lút đổ bộ quân dụng. Vòng lên phía Bắc vịnh Thái Lan còn
có cửa quan trọng khác là cửa biển Rạch Giá.
Ở miền
Nam, ngoài các sông rạch phụ thuộc sông Cửu Long còn phải kể thêm các sông khác
như sông Đồng Nai ở miền Đông. Đây là một sông lớn bắt nguồn từ Đồng Nai thượng
với hai phụ lưu: sông Bé và sông La Ngà. Nước sông Đồng Nai vốn có tiếng là
nước trong và ngọt (“Gạo Ba Thắt, nước Đồng Nai”). Vùng Biên Hòa, về hạ lưu
sông Phước, hai sông Đông Giang và Tây Giang bị cù lao Cái Tắt chia hai. Đến
chỗ hai sông này nhập lại, ông bà ngày xưa đặt cho cái tên ngộ nghĩnh là sông
Chàng Hãng, tên chữ là Lan Vu Giang.
Giao
thông đường thủy miền Nam do các sông rạch thiên nhiên còn được bổ túc với bao
nhiêu kinh đào. Nhiều kinh đã được đào từ thời người Chân Lạp nhưng đã bị lấp
cạn phần nào. Thời thuộc địa Pháp, với phương tiện cơ giới nên rất nhiều kinh
đã được hoàn thành để nối các sông rạch cho thuận tiện ghe thuyền di chuyển và
cũng để tháo nước phèn để thêm đất canh tác. Có một con kinh được Pháp đặt tên
Kinh 4 bis (Kinh số 4 phụ), được dân chúng phiên âm thành Kinh Cát Bích hoặc
Cát Bít! Tổng thống Ngô Đình Diệm đã có công hoàn thành con kinh quan trọng ở
Đồng Tháp là kinh Đồng Tiến. Thời nhà Nguyễn phải kể đến việc đào thành công
con kinh chiến lược nối liền đường nước từ Châu Đốc ra cửa biển Hà Tiên. Phải
mất 5 năm, từ 1819 đến 1824 mới đào xong. Ngoài việc giúp tiện lợi giao thông,
con kinh còn để phân định biên giới giữa Việt Nam và Cam Bốt. Vua Minh mạng đã
ban cho tên kinh là kinh Vĩnh Tế, tên của vợ công thần Thoại Ngọc Hầu.
Vì có
nhiều sông ngòi nên một đặc điểm khác của miền Nam là có vô số cù lao và cồn
trên sông. Các cù lao loại lớn bắt đầu từ miền Đông có Cù Lao Phố ở Biên Hòa.
Đây là một cù lao trù phú danh tiếng chẳng những ở Việt Nam mà cả ở Đông Nam Á
thời đàng cựu. Ghe tàu ngoại quốc tấp nập đến đây trao đổi hàng hóa. Trần
Thượng Xuyên, Tổng binh tỉnh Quảng Đông thời nhà Minh vì không thuần phục nhà
Thanh nên đã dùng 50 chiến thuyền cùng bộ hạ và gia đình đến xin được tá túc
với chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) cho họ vào đây lập nghiệp.
Trần Thượng Xuyên lá người đã có tài và công xây dựng được trung tâm thương mại
quan trọng này. Trong thời tranh chấp Nguyễn Ánh- Nguyễn Huệ, quân Nguyễn Huệ
đã tàn sát cư dân ở đây, khiến những người sống sót phải di dân về thành lập
khu Chợ Lớn phồn thịnh ngày nay. Trên các sông Tiền và sông Hậu, cù lao hay
được nhắc tên là cù lao Giêng ở Long Xuyên. Nơi đây có cô nhi viện lâu đời do
các dì phước phụ trách. Cù lao Đại Châu gồm có 5 làng là cù lao giữa cửa Tiểu
và cửa Đại, còn có tên gọi là Trấn Hải Châu. Một cù lao lớn thuộc Sóc Trăng dài
trên 35 dặm trên sông Hậu là cù lao Dung. Cù lao Minh giữa Cổ Chiên và Hàm
Luông (Bến Tre), cù lao Năm Thôn là một trong vài cù lao lớn miền Lục Tỉnh. Các
cù lao lớn nhỏ khác kể ra không siết. Tưởng chỉ nên kể thêm một cù lao đặc biệt
trấn giữ mặt trước cho châu thành Mỹ Tho: đó là cù lao Rồng. Nơi đây trước kia
là chỗ an trí các người mắc phải bịnh cùi. Miền Hậu Giang, nói đến cù lao phải
kể đến cù lao Ông Chưởng, nơi Chưởng binh Nguyễn Hữu Cảnh bị bịnh nặng phải bỏ
mình sau khi chiến thắng quân Chân Lạp của Nặc Thu năm 1699. Câu hát đưa em ở
miền Nam đã đi vào văn hóa bình dân:
Bao
phen quạ nói với diều:
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.
Trên
mặt biển các cù lao thường được gọi là hòn. Lớn nhất và có tiềm năng kinh tế
rất quan trọng là hòn Phú Quốc, rộng 200 dặm từ Đông đến Tây. Ngoài việc sản
xuất các thổ sản như tiêu, dừa… Phú Quốc còn được biết trên toàn quốc với loại
nước mắm hòn thơm diệu. Vùng Hà Tiên còn có các hòn Dầu Rái, hòn Chông nơi có
động gọi chùa Hang. Trong Chùa Hang có hai tượng Phật tạc từ thế kỷ thứ XIV. Từ
hòn Chông trông ra biển còn có hòn Phụ Tử. Ngay cửa biển Rạch Giá có Hòn Tre
châu vi 20 dặm. Ngang vàm sông Ông Đốc ngoài vịnh Thái Lan có hòn Đá Bạc, rộng
độ một cây số vuông. Nơi hòn này Việt Minh đã xử tử nhà ái quốc Hồ Văn Ngà.
Trước khi chết ông Ngà đã nói với phía Cộng Sản:
Giết
thì cứ giết nhưng đừng kêu qua là Việt gian
Phía
tây cách Mũi Cà Mau độ 10 cây số có Hòn Khoai (Poulo Obi). Nơi đây có một ngọn
hải đăng và đặc biệt lại có nguồn nước ngọt. Các ghe từ Cà Mau thường ra đây để
lấy nước chở về tiếp tế cho dân chúng. Ngoài khơi tỉnh Rạch Giá có hòn Sơn Rái
(Tamassou) và quần đảo Cổ Tròn (Poulo Dama) là hai nơi các tàu tuần duyên Hải
Quân thường ghé khi thủy thủ đoàn cần tạm nghỉ. Kể về các hòn, ngoài quần đảo
Côn Sơn danh tiếng mọi người đều biết, không thể quên một hòn nằm xa nhất về
phía Nam vịnh Thái Lan. Đó là hòn Thổ Châu (Poulo Panjang), diện tích trên 100
dặm. Các ghe của dân chài lưới thường đến đây và tùy theo hướng gió mùa, cập
bến hoặc bên bờ Đông hay bờ Tây của đảo. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Hải Quân thiết
lập một căn cứ thường trực nơi đây. Trên núi còn có một ngôi cổ tự được các vị
sư ẩn tu chăm sóc.
Nhà
Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Ngày
xưa các đường trong thị trấn không mang tên các nhân vật như ngày nay. Tỉnh lỵ
Gia Định có các đường được dân chúng gọi theo các loại cây trồng: đường Hàng
Bàng từ Cầu Bông đến Lăng Ông, đường Hàng Thị nơi có Kho Bạc và căn phố của ông
Nguyễn An Ninh với tủ sách quý, đường Hàng Xanh từ Gia Định qua Thị Nghè với
chùa Sư Muôn, đường Hàng Keo với cái bót mật thám Pháp giam các nhà ái quốc,
đường Thốt Nốt gần Lăng Ông nơi có căn phố của Tạ Thu Thâu từng ở nhiều năm.
Nhiều con đường khác sau này được đặt tên các nhân vật nhưng dân chúng vẫn dùng
các tên xưa: đường Lò Heo Mới, đường Lò Heo Cũ, đường Nhà Thờ, bến Tắm Ngựa.
Miền
Nam là vùng đồng bằng với rất nhiều sông rạch. Trái lại, núi non ở đây rất hiếm
hoi. Ở mạn Đông Bắc mới có các núi nhỏ như Biên Hòa có núi Châu Thới cao độ 60
thước với chùa Hội Sơn trên đỉnh, núi Bữu Long, núi Đá Lửa, núi Đá Trắng…; núi
Thị Vãi, núi Dinh vùng Bà Rịa; núi Lớn ở Vũng Tàu. Núi cao miền Đông chỉ có núi
Chứa Chan (803 thước). Tây Ninh có núi Bà Đen, người khơ me gọi làyéay khmau
(lảo bà đen) một nữ thần gốc Thổ, được vua Gia Long phong “Linh Sơn Thánh Mẫu”.
Về phía Tây, vùng Hà Tiên có vài núi nhỏ như núi Phù Dung, núi Địa Tạng, núi Đá
Dựng, núi Mây(Vân Sơn). Chỉ có vùng Châu Đốc mới có dải núi quan trọng là Thất
Sơn hay Bảy Núi. Được biết nhiều nhất là Núi Sam, nơi có mộ phu nhân Thoại Ngọc
Hầu, mộ Phật Thầy Tây An và miếu bà Chúa Xứ; núi Sập với đền thờ Thoại Ngọc
Hầu. Núi Sập còn có tên Thoại Sơn, do triều đình Huế đặt để tưởng thưởng Thoại
Ngọc Hầu, người có công đào cảng Đông Xuyên tức sông Ông Thoại và kinh Vĩnh Tế.
Tóm
lại, trong khi ở miền Bắc hay Trung, các địa danh thường có những tên văn hoa
thì ở miền Nam các địa danh lại có đặc tánh bình dân, mộc mạc. Chỉ trừ các nơi
khi bắt đầu khai phá được các quan chức thời xưa đặt cho các tên văn chương Hán
Việt như Biên Trấn, Gia Định, Tân An, Long Hồ…tên các nơi khác thường được dân
chúng kêu trại ra từ các tên của hoặc Chàm, hoặc Khơ Me. Bắt đầu như Bà Rịa do
tiếng Yéay Ria của Thổ tức lão bà hay mụ Ria. Châu Đốc theo người Khơ Me tên
Mắt cruk và họ gọi đây là sóc Miệng heo. Sốc Trăng tên Khơ me là Păm prêk srok
khlẳn (Péam: vàm; prêk: sông; srok: sốc; klẳn: kho bạc. Thời Khơ Me nơi đây có
đặt một kho bạc). Đời Minh Mạng, tên chữ là Nguyệt Giang Tinh, dân gian gọi nôm
na lại thành Sốc Trăng, bỏ chữ Nguyệt! Cà Mau do tiếng Khơ Me Tuk-khmau (nước
đen). Vĩnh Bình do tiếng Khơ Me Preatrapeang (Hồ thánh). Bạc Liêu do tên Khơ Me
Po-Loeuh (Cây da cao). Từ Long Xuyên đi Châu Đốc có Chắc Cà Đao nơi được biết
tiếng do việc tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh tức Ba Cụt đã bị bắt nơi đây. Ba Cụt
đã được Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ dụ ra hàng nên đã bị bắt và đã bị Tổng
thống Ngô Đình Diệm xử tử bằng máy chém ở Cần Thơ. Chắc Cà Đao có lẽ là nói
trại từ tiếng Khơ Me Cháp Cà Đam (cháp: bắt; Kdam: cua). Khi cuộc Nam Tiến kết
thúc ở Hà Tiên, có lẽ nhờ ảnh hưởng phát huy văn hóa của các danh nhân khai phá
vùng đất này như Mặc Cữu và con là Mặc Thiên Tứ (tác giả mười bài: Hà Tiên thập
cảnh) nên nơi đây lại có những địa danh Hán Việt: Hà Tiên, Đông Hồ, Tô Châu, Hà
Giang, Vân Sơn, Phù Dung…
Người
bình dân thích chọn những danh từ họ dễ nhớ, phù hợp với sự suy diễn của họ.
Trong việc giao dịch hằng ngày, dân chúng vẫn dùng những ngôn ngữ quen thuộc
được truyền lại từ nhiều đời. Tổng thống Ngô Đình Diệm, người từ miền Trung vào
nắm vận mạng miền Nam, đã có một thời đặt lại tên có tánh cách Hán Việt cho các
địa danh ở miền đất này nhưng dân chúng vẫn thích gọi Cà Mau thay vì An Xuyên,
Rạch Giá thay vì Kiên Giang, Long Xuyên thay gì An Giang, Cần Thơ thay vì Phong
Dinh, Sốc Trăng thay vì Ba Xuyên, Mộc Hóa thay vì Kiến Tường, Blao thay gì Bảo
Lộc…!
Để
kết thúc bài viết này, tác giả không thể không kể đến một chuyện vui. Khi có
cuộc hành quân Sóng Tình Thương vào vùng Cà Mau, một an toàn khu nhiều đời của
Cộng Sản, trong buổi ăn sáng ở phòng ăn sĩ quan trên Hải Vận Hạm Cam Ranh HQ
500, Chỉ huy trưởng cuộc hành quân, cố Trung tướng Thủy quân Lục chiến Lê
Nguyên Khang – lúc ấy còn mang cấp bực Trung tá – đã nói: “Trước giờ xuất phát,
tôi xin nói với các đơn vị trưởng: Tối hôm qua, tôi xem trên bản đồ thấy gần
Ngã ba Hóc Năng có rạch Ông Phiêu. Tôi không thể viết trong lịnh Hành quân
nhưng tôi yêu cầu quý vị đơn vị trưởng đừng có đem bác sĩ Phiêu léng phéng đến
cái rạch đó!””
Trần Nguơn Phiêu
.........../.