Để hiểu thêm TỐ HỮU
VƯƠNG TRÍ
NHÀN
[trích]
Trước mắt tôi là sưu tập
Văn Nghệ số 40 ra 3-1953. Lúc này cơ quan Hội văn nghệ đang đóng ở rừng Việt Bắc.
Nhân cái chết của Stalin, tạp chí của Hội ra một số đặc biệt, không chỉ Tố Hữu
mà nhiều tác giả khác có bài liên quan tới sự kiện này.
Về thơ
Chế Lan Viên có Stalin
không chết, mở đầu bằng mấy câu
Stalin mất rồi
Đồng chí Stalin đã mất!
Thế giới không cha nặng
tiếng thở dài
Ở đoạn dưới
Mẹ hiền ta ơi
Em bé ta ơi
Đồng chí Stalin không bao
giờ chết
…Triệu triệu mẹ già em dại
Đều là súng Stalin để lại
( VTN gạch dưới)*
Giữ lấy hòa bình thế giới
Tiếng nổ ca vang dội thấu
mặt trời
Các bài tiếp theo:
Trước bài Đời đời nhớ Ông
của Tố Hữu là bài Nhớ đồng chí Sta lin của Huy Cận
Tiếp đó các bài của Bàn
Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn.
Xuân Diệu có bài Thương
tiếc Đại nguyên soái Stalin:
Nghe tin mất mới thấy
lòng quyến luyến
Từ bao lâu yêu Người tận
tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả
can trường
Thấy Người thật là bát
cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con
trong vận mệnh
Về phần văn xuôi.
Phan Khôi có bài Một vị học
giả mác-xít thiên tài. Trước khi viết kỹ về cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề ngôn
ngữ, Phan Khôi có đoạn dạo đầu ngắn:
Đối với cái chết của Đại
nguyên soái Stalin, vấn đề đề ra trước mắt những người đang sống là: Chúng ta
phải học tập Stalin, học tập đạo đức cách mạng và trí tuệ của ông, được cả càng
hay, không thì được phần nào cũng hay phần ấy, đó là một đảm bảo vững chắc cho
cuộc thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của Chủ nghĩa tân dân chủ.
Lê Đạt thì xuất hiện như
một phóng viên, ghi lại không khí một nhà máy trong rừng khi nghe tin Stalin mất.
Bài viết khoảng 3.000 chữ này kể chuyện cái chết của Stalin đã gợi lên niềm xúc
động to lớn, từ đó đánh thức tinh thần lao động sáng tạo của cả một tập thể
công nhân gang thép.
Xin phép mở một dấu ngoặc.
Ngoài các bài Liễu, Bài
thơ tình ở Hàng Châu, Tế Hanh còn có bài thơ ngắn sau đây, viết trong đợt thăm
Trung quốc 1962. Tôi vẫn thường nhẩm lại mỗi khi nhớ tới đời sống tinh thần của
chúng tôi những năm 1965 về trước.
Hồ Nam xe chạy không dừng
bước
Dãy núi cao liền dãy núi
cao
Quê hương lãnh tụ mây
thêu nắng
Thấy mặt trời lên nhớ bác
Mao
Tôi muốn thầm nói với Tế
Hanh: Anh không việc gì phải xấu hổ cả. Hồi ấy, bao nhiêu người nghĩ thế, chứ
đâu phải riêng anh!
Trở lại chuyện Tố Hữu.
Nếu có ai hỏi tôi thích
bài nào của Tố Hữu nhất, tôi sẽ nói rằng đó là cụm mấy bài ông làm hồi đi tù,
in trong phần Xiềng xích của tập Từ ấy.
Bài Nhớ đồng
Gì sâu bằng những trưa
thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một
tiếng hò
Bài Tiếng hát đi đầy
Hỡi những anh đầu đi trước
đó
Biết chăng còn lắm bạn đi
đầy
Những bài thơ này có cái
giọng mà sau này không bao giờ Tố Hữu có nữa. Nhà thơ bơ vơ trong cảnh đơn độc ở
núi rừng. Phải làm thơ, phải lấy thơ để tự khẳng định, thơ cất lên không để cho
ai mà trước tiên để cho mình .
Những bài thơ viết khi
người ta không biết mình sẽ sống hay chết như thế này,
tôi còn gặp một lần nữa
trong thơ VN về sau, đó là tập Ánh sáng và phù sa.
Khi soạn tập thơ (1960),
Chế Lan Viên chưa chuyển sang giai đoạn lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc
phù sa , như Xuân Sách sẽ viết .
Sinh thời, Tố Hữu hay
nói, đại ý hãy coi ông là nhà cách mạng, sau đó mới là nhà thơ.
Như thế tức là ông cũng
đã biết chỗ đứng của mình trong lịch sử.
Có điều không phải luôn
luôn người ta làm được đúng như những điều người ta tự xác định.
Là một người hết sức nhạy
cảm và sẵn có cả chất mệ của quê hương, ông thừa biết nhiều khi dân văn nghệ ca
ngợi thơ ông vì ông là quan chức phụ trách người ta, nắm sinh mệnh của người
ta.
Song nếu đủ sáng suốt để
từ chối những lời nịnh bợ thường trực thì ông đã không còn là ông nữa.
Lẽ đời là vậy, lúc được
được quá cái đáng được, thì lúc mất cũng mất quá cái đáng mất.
Nhưng về phần chúng ta, mỗi
lần đả động đến ông, tôi nghĩ nên phân biệt đang nói về ông như một quan chức
cao cấp hay nói về ông như một nhà thơ.
Khoảng năm 1973, Hà Nội
có một triển lãm điêu khắc với ngôn ngữ khá hiện đại của Nguyễn Hải và Lê Công
Thành. Chính Tố Hữu cũng rất thích -- sang Hội nhà văn nghe ngóng về, Nguyễn Khải
báo cho tôi biết tin vui đó. Nhưng rồi hóa ra chúng tôi mừng hụt. Mấy vị to hơn
tới xem cho là không được. Và người ta lại thấy Tố Hữu cho truyền đi nhận định
không thể tìm tòi kiểu ấy, mà hãy trở lại với thứ điêu khắc mô phỏng đời thường,
kiểu Trần Văn Lắm!
Tức là cũng như chúng ta,
Tố Hữu cũng có lúc phải làm ngược điều mình nghĩ.
Trước đó năm 1965, Nguyễn
Thành Long bị nạn với bút ký Cái gốc. Bài ký cũng chẳng có chuyện gì đen tối lắm,
chỉ tả phụ nữ trong chiến tranh quá nhếch nhác, nên bị Đảng đoàn Hội phụ nữ
kêu.Theo chỗ tôi nhớ, lúc đầu Nguyễn Thành Long rất tự tin, vì Tố Hữu đã nhắn
xuống tỏ ý bênh, “họ có Đảng đoàn thì mình cũng có Đảng đoàn chứ “( ý nói Đảng
đoàn phụ nữ và Đảng đoàn văn nghệ-- hai cấp tương đương nhau ). Thế nhưng bên
phụ nữ kiện lên trên và cuối cùng văn nghệ thua, Cái gốc chung số phận với Tình
rừng.
Nguyễn Khải kể khoảng năm
1963, có lần được dự một cuộc họp cùng bí thư tỉnh ủy các tỉnh đồng bằng do Tố
Hữu chủ trì, chắc là bàn về công tác tuyên huấn. Trong lúc nghe mọi người thảo
luận, bỗng Nguyễn Khải thấy Tố Hữu đang đi quanh thì dừng lại, ghé vào tai mình
nói nhỏ:
-- Chăc nhà văn nhìn cảnh
này như một trò hề?!
Rồi ông lảng ngay, lên
bàn chủ tịch, tiếp tục lo nốt các việc đang làm dở.
Cái lạ của các nhà văn
sau 1945 là khi tính viết con người thời nay, chỉ hay viết về nhân vật quần
chúng công nông. Còn những người kéo quần chúng đi, vẽ ra cái mẫu điển hình để
quần chúng sống theo và nói chung chỉ có vai trò đơn giản là…lèo lái toàn bộ đời
sống – những nhân vật quan chức nhân vật cán bộ kiểu ấy lại chả ai viết bao giờ.
Tôi đã phác qua một vài
nét về Tố Hữu hồi ở Việt Bắc trong ghi chép về Nguyễn Đình Nghi.
Nhị Ca kể với tôi cái
tình tiết sau đây: trong rừng, cạnh cơ quan, thường có những quán cà phê, anh
em hay ra đấy đấu láo. Đang vui thì Tố Hữu đến. Thế là mọi người không ai bảo
ai rút lui hết. Chỉ còn một người bao giờ cũng ngồi với Tố Hữu đến cùng. Là Hoài
Thanh.
Cái công của Tố Hữu hồi ấy
là giữ cho được anh em đi theo kháng chiến đến cùng không để họ trở về thành.
Những năm chiến tranh, thỉnh
thoảng một số anh em viết trẻ chúng tôi cũng được gọi đi nghe Tố Hữu nói chuyện.
Có một câu ông nói khiến tôi nhớ nhất và phải nói thực sợ nhất, đó là cái ý ông
bảo sang nước ngoài thấy đời sống họ lạnh lùng lắm, về nước thấy đồng bào mình
sống với nhau, ấm cúng hơn hẳn.
Ông cũng thường nói là nổi
tiếng ở nước ngoài thì dễ, nổi tiếng ở trong nước mới khó .
Lại có lần khuyến khích lớp
trẻ, ông bảo phải biết đấu tranh cho chân lý, khi cần phải cắn xé(!). May mà bọn
tôi đã nghe nhiều về tính đồng bóng của ông, nên chẳng mấy cảm động, nhớ đâu
hình như chính Xuân Quỳnh bảo rằng có mà ông cho ghè gẫy răng.
Tố Hữu quản cán bộ cấp dưới
thế nào? Nguyễn Khải nhận xét có vẻ như càng những người bất tài và có khuyết
điểm ông lại càng thích dùng. Những ông A ông B từng bị Tố Hữu mắng như tát nước
vào mặt lại rất vững vàng trong vị trí của mình. Vì ông thừa biết loại đó bảo
thế nào họ cũng phải nghe.
Bảo Định Giang, người phụ
trách Hội liên hiệp những năm ấy thường kể với mọi người ông Lành dọa sẽ lấy đầu
nếu BĐG để một vài văn nghệ sĩ tiêu biểu lơ mơ ở Hà Nội rồi dính bom đạn.
Một lần, khoảng những năm
trước 1980, tôi ngồi với Nguyễn Khải, Xuân Sách, cùng giở một số báo Tết. Khi ấy
Tố Hữu đã đi phụ trách kinh tế, nhưng các số báo tết vẫn có bài của ông. Nguyễn
Khải sát hạch tôi:
-- Thằng Nhàn hãy thử
bình một câu xem nào.
Tôi lúc đầu cũng chỉ biết
nói như mọi người:
-- Thế là được một nhà
kinh tế mà mất một nhà thơ.
Nguyễn Khải gạt phắt đi:
-- Không được.
Trong cơn bí, tôi phụt ra
một ý mà trước đó tôi không hề nghĩ:
-- Người làm ra những bài
thơ như thế này thì chắc làm kinh tế cũng không ra gì!
Bấy giờ Nguyễn Khải mới
cười, bảo ra tôi cũng bắt đầu biết rồi đấy.
[....]