giữ tiếng ông bà mình

 CHUYỆN “CON KINH” CHỨ KHÔNG CÓ "CON KÊNH"


Nguyễn Gia Việt *******



Miền Nam ngày xưa chỉ nói "con kinh" chứ không có nói "con kênh" tràn lan như bây giờ. Nhiều lúc thấy tức cười, cầu Kinh Thanh Đa cái biển ghi rõ vậy mà lên truyền thông bị biến thành cầu Kênh Thanh Đa, nghe phát mệt!
Con kinh là con sông nhỏ, lấy nước từ sông lớn vào đồng ruộng, thông với những con sông khác. Miền Nam có kinh Bảo Định, kinh Vĩnh Tế, kinh Tàu Hủ, kinh Nhiêu Lôc, kinh Thanh Đa, kinh Nước Mặn, kinh Ông Cò...
Nghe "Bên dòng sông Trẹm" có khúc:
"Tới bên bờ kinh Tân Bằng, Cán Gáo
Ngồi trên đất giồng qua thương chiều lững lơ về
Tình yêu sông nước duyên quê
Nói sao cho vừa miếng trầu gửi bạn tình chung thủy chung"
Kinh Cán Gáo ở Cà Mau là con kinh thẳng như cái cán gáo múc nước. Kinh Cán Gáo nối sông Cái Lớn với rạch Cái Tàu.
Kinh Nước Mặn ở Cần Đước là con kinh dài chỉ 1,9 km, nối sông Vàm Cỏ (sông Bao Ngược) với sông Cần Giuộc (sông Rạch Cát).
Kinh Nước Mặn rút ngắn đáng kể thì giờ trên con thủy lộ độc đạo từ Sài Gòn về miệt dưới Nam Kỳ.
Kinh Nước Mặn dài 1,9 km, cắt cái eo nhỏ của làng Long Hựu, tổng Lộc Thành Hạ, tỉnh Chợ Lớn, ngày nay là Cần Đước Long An, vô tình biến làng Long Hựu từ bán đảo thành ra một đảo nhỏ giữa sông.
Bến đò Kinh Nước Mặn ra đời từ đó và kéo dài tới những năm 2010 khi có cầu thay thế.
Để kiểm soát quân sự thủy lộ, trấn giữ phòng thủ thành Sài Gòn, năm 1903 Pháp xây một pháo đài lớn nhứt Việt Nam tên là Rạch Cát ở đầu làng Long Hựu,mặt nhìn ra 3 nhánh sông.
Kinh Nước Mặn do ông Đỗ Hữu Phương (Tổng đốc Phương) trực tiếp chỉ huy đào.
Trong "Lịch sử khẩn hoang Miền Nam" Sơn Nam viết:
"Tổng đốc Đỗ Hữu Phương.Năm 1878, điều khiển việc sửa con kinh Nước Mặn, bắt dân ở tổng Lộc Thành Hạ làm xâu, dân vùng này nổi tiếng là cứng đầu."
Người Nam Kỳ gọi là kinh Nước Mặn,bằng chứng là kế bên có ngôi chợ rất lớn tên là Chợ Kinh Nước Mặn, nhưng sau 1975 ghi trên bản đồ, trên biển cầu là Kênh Nước Mặn.
Kinh xáng Xà No là con kinh đào dài gần 34 km nối từ Cần Thơ đến Hậu Giang trổ qua tới tỉnh Rạch Giá.
"Hò ơ!
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Anh có thương em thì mua một con đò
Để em qua lại
Hò ơ!để em qua lại thăm dò ý anh"
Kinh được Pháp cho xáng múc từ 1901 - 1903, mặt rộng 60 m, đáy rộng 40 m, kinh phí 3,6 triệu francs.
Xà No là từ tiếng Khmer là Sok Snor có nghĩa là xóm cây điên điển. Xáng thời này đốt bằng củi, tạo ra hơi nước.
Kinh xáng Xà No là đường thủy lớn nhứt Nam Kỳ, quan trọng ngang với đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho.
Từ kinh Xà No, Pháp đào những con kinh nhỏ chạy ngang dẫn nước vô điền, cứ vài trăm mét lại đào một con kinh, địa danh Một Ngàn, Ngàn Rưỡi, Bảy Ngàn, Tám Ngàn tới Mười Bốn Ngàn Rưởi… có từ đó.
Trong văn minh lục tỉnh thì chữ "Xáng" đã trở nên quen thuộc, có một vị trí thân thuộc.
Ở Long Định Tiền Giang có con kinh Xáng và cây cầu Kinh Xáng rất lớn. Ở Tri Tôn An Giang cũng có kinh xáng. Cà Mau có kinh xáng Đội Cường, kinh xáng Bà Kẹo...
Xáng do chữ Pháp chaland (xà lan) mà ra .Do người Pháp đặt cái máy đào có cái hàm cạp đất trên một cái xà lan trên sông nên dân Nam gọi là xáng.
Người Nam Kỳ miệt Sài Gòn, Long An, Gò Công gọi là xáng cạp, Hậu Giang gọi xáng múc, và sau này có thêm xáng thổi.
"Ăn như xáng múc làm như lục bình trôi"
Liệt kê các chợ dọc kinh xáng Xà No như sau : chợ Vàm Xáng, chợ Một Ngàn, chợ Bảy Ngàn, chợ Cái Nhum, chợ Hỏa Lựu, Cầu Xáng, Xáng Mới,Xáng Chìm, Xáng Nổ, Xáng Bộ, xáng Lái Hiếu, xáng Nàng Mau.
Ở Cần Thơ có hồ Xáng Thổi và Búng Xáng
Búng (không phải bún) là cái hồ có con rạch thông với sông.Búng Bình Thiên ở An Phú là nó, còn chợ Búng ở Lái Thiêu cũng là nó, ai nói chợ Búng Lái Thiêu xưa làm bún là sai bét.
Nhờ con kinh xáng, văn minh đã về miệt này, chợ búa, trường học, nhà máy xay lúa, chành chứa lúa gạo đã đem lại văn minh sông nước.
“Củ năn ngăn trong lòng son đỏ
Mấy lời to nhỏ: bạn bỏ sao đành
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu Tây kia liệt máy, anh mới đành bỏ em”
Tân Hiệp Kiên Giang có những con kinh mang số. Nhưng tại sao có chợ Kinh 8 mà lại có chợ Kênh 5? Có Bến Đò Kinh 3A lại có Bến Đò Kênh 4?
Vì bị lây con kênh ở vùng khác đem vô.


Nam Kỳ Lục Tỉnh mình miệt nào cũng là miền sông rạch chằng chịt.
Sông thuộc loại lớn có Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ sông Tiền, sông Hậu, sông Cái Lớn, những sông lớn xen kẻ vô số kinh rạch nhỏ không làm sao kể xiết.
Rạch Giá là tên Việt hoàn toàn do ông bà mình đặt. Rạch là con sông nhỏ, Giá là cây giá. Rồi Rạch Nhum, Rạch Đỉa, Rạch Gầm, Rạch Rích, Rạch Thầy Phó, Rạch Sung cũng hoàn toàn Việt.
Khém là cái lạch, cái xẻo hẹp, có cầu Vàm Khém, có khém Rạch Già, sông Khém, cầu Khém Dưới, cầu Khém Trên, kinh Khém Lớn, rạch Khém Vườn.
Vàm là từ gốc Khmer “péam”. Vàm là đầu con rạch ăn thông với sông lớn.
Vàm Láng Gò Công xưa thuộc làng Kiểng Phước, nằm mé bên sông Soài Rạp đổ ra cửa Soài Rạp.
Soài Rạp tức Lôi Lạp xuất xứ từ tiếng Khmer vì đất Gò Công xưa thuộc vương quốc Phù Nam, sau đó bị nhập vào Thuỷ Chân Lạp.
Vàm Láng là một làng mà dân sống bằng nghề đi ghe, đi biển.
“Anh đi ghe lúa Gò Công
Vô vàm Bao Ngược, bị dông đứt buồm”
Lung có gốc từ tiếng Khmer là chỗ trũng quanh năm có nước đọng ở giữa đồng hoặc giữa rừng. Có Lung Tràm, Rạch Lung, cầu Lung Âm, rạch Lung Ấu, Lung Chà Ngo, Lung Ngọc Hoàng.
Nhà văn Bình-nguyên Lộc, một người viết văn có 70% là tiếng Miền Nam, còn 30% còn lại ông bị lây tiếng Bắc.
Thí dụ trong "Đò dọc" ông bị lẫn nhiều tiếng Bắc.
“Trái sao, trái dầu bay đẹp mà rơi cũng đẹp. Nhưng trái trắc bay trông lại buồn cười"
Người Sài Gòn nào nói "trông buồn cười", đó là kiểu Bắc, Miền Nam sẽ nói "nhìn thiệt là tức (mắc) cười"
Trong "Căn bệnh bí mật cua nàng" Bình-nguyên Lộc cài chữ "nhà thương", “thích nhứt" nhưng ông lại viết thủ tiêu chữ "bịnh" mất tiêu luôn, thay bằng bệnh và ốm, còn "vâng" và "anh ạ" nữa chứ!
Cụ thể là:
"Vâng, tôi vừa ốm khỏi anh ạ! Mà cả nước Pháp đều không biết tôi mắc bệnh gì, cái mới nguy cho chớ!"
Trong bài "Thơ Ba mén" nhà văn Miền Nam “thổ ngơi thơm phức hồn ma cũ”có câu:
"Bến Ông Lãnh màn mưa bao phủ
Ghe thương hồ ủ rũ dưới kia
Ghe ơi, vài bữa ghe về
Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?"
Như đã từng nói, người Miền Nam không đặt tên con là Vượng vì đọc chữ Vượn hay Vượng đều như nhau.
Thì cũng không có người Miền Nam nào đặt tên con là "Quì" vì nó đồng nghĩa với quỳ gối, quỳ mọp. Viết i ngắn là thói quen người Miền Nam, nhưng dù viết "Quì" cũng không trúng.
Người Miền Bắc thích chữ "quỳ" lắm, vì trong Hán ngữ chữ quỳ có nghĩa là đường lớn hoặc là hoa dã quỳ.
Nhưng Nam Kỳ ngại chữ quỳ trong "quỳ gối", sợ tên con sẽ mọp xuống cả đời như mấy cái tủ chưn quỳ.
"Dù ai trăm khéo ngàn khôn
Đến cửa nhà l.. quỳ gối chống tay"





Người Miền Nam chưng Tết cũng không xài tắc và cam.
Cây tắc, chữ tắc làm dân Nam Kỳ sợ sẽ bị bế tắc, tắt thở cả năm. Thành ra tắc kiểng bán nhiều ở khu Tàu, khu Bắc vì họ kêu là cây quất.
Nam Kỳ cũng kỵ chưng cam trên bàn thờ vì nó cam phận, chỉ chưng quýt chưng bưởi, nhưng nghĩ vầy, cam là trái nuôi người bịnh, Tết nhứt thấy trái cam là nghĩ tới cái cảnh lê lết ở bịnh viện nên kiêng.
Bình-nguyên Lộc có viết "Quyển gia phổ". Khi nói người Miền Nam không lập gia phả thời một vài bạn lấy cuốn "Quyển gia phổ" này ra khẳng đinh người Miền Nam có lập "gia phổ". Lý luận sai
Người Miền Nam kêu "cuốn sách" chứ không kêu quyển sách.
Nam Kỳ không có lý trưởng, không có cảnh ông lý đập ba ton lên đầu người dân đi trên đường, Nam Kỳ không có làng xã kiểu lũy tre làng, không có cảnh mỏ làng xử án ná thở ở đình làng, không có cảnh cạo đầu thả bè chuối trôi sông gái chửa hoang.
Nam Kỳ không lập gia phả. Một xã hội mở, một xã hội không có lũy tre làng, chủ trương bán họ hàng xa mua láng giềng gần, một xã hội chỉ thờ cúng có ba bốn đời, không có tộc trưởng quyền uy, không mả tổ, không nhà thờ tổ thì lập gia phả để làm gì? nếu có nó cũng không có vai trò gì như kiểu ở ngoài Bắc.
Như đã nói, có một số dòng họ Nam Kỳ có gia phả, nhưng rất sơ sài và không có tính viết tiếp, nó cứ đứt đoạn rồi mất tích, sau này tìm không ra.
Nhiều nhà theo phong trào gia phả những năm gần đây viết lại.
Một số dòng họ làm quan, làm điền chủ cũng ghi gia phả nhưng cái đó không phải tính cách thực chất của tổ tiên Nam Kỳ xưa.
Người Miền Nam nào có "gia phổ" thường là gốc Bắc di cư và họ quản lý rõ từng đời, đời đầu tới đời hiện tại.
Trong "Quyển gia phổ" thì gia đình này gốc Bắc ăn tết bằng bánh chưng. Nhân vật Khoa kể thói quen mà người từ Đàng Ngoài vào đất mới giữ,đó là viết gia phổ.
Cái quyển gia phổ dòng họ bị cháy nên:
“Anh Tồn anh ấy khổ sở thế vì quyển gia phổ ấy giúp ảnh bằng cớ để mà tự hào về dòng họ cổ nhứt miền Nam của chúng tôi: còn mồ mả những mười hai đời và gia phổ chép những mười lăm đời. Ảnh tự hào rồi mải vướng bận vì những bảo vật ấy. Tình quyến luyến ấy theo tôi cũng không hại gì cho lắm. Ác một cái là nó kéo theo cả bầy lũ những tình ý khác, cái nào cũng cổ kính như ngôi mộ đóng rêu...”
Nói ra tới đây rồi, xin nhét vào thêm vài chữ nữa cho các bạn trẻ "nhột" mà nhìn vấn đề
Phong trào "bỉm" và "mẹ bỉm sữa" làm nhiều người Sài Gòn gốc thấy tức cười.
Các bạn Miền Nam viết "có mang" là của miền Bắc, hãy xài chữ "có bầu", “có chửa".
"Có chửa thì đẻ, có ghẻ đâu mà sợ gãi"
Đừng "bế con" mà hãy bồng con,ẵm con:
"Thôi thôi đã lỡ ra rồi
Bồng con ra ngồi coi thử giống ai
Cái mặt thì giống tuần Hai
Cái vai Tư Chõng, xương sống giống biện Tài
Chân mày giống Tám Lịch
Cái đít giống hịt bầu Khuê
Cái đề giống Tư Đũi
Cái mũi giống Ba Hầu
Cái đầu lại giống Ba Phó
Còn cái chứng ngó thì thiệt giống Mười Trương"
Hãy xài tiếng mình, nói và viết tiếng quê mình đặng giữ quê mình thì ngại gì mà không nói, chẳng ai có tội khi cố giữ tiếng ông bà mình.

*Nguyễn Gia Việt
NGUỒN: fb 8 SÀI GÒN
.................