Thủ đoạn tiêu diệt tận gốc
văn hóa Việt Nam
của Minh Thành Tổ
trong cuộc chiến tranh
xâm lược 1406-1407
_______________
Nguyễn Huệ Chi
Nguyên đây là một thiên khảo
luận dài có tên “Cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược Minh và văn học yêu
nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về sau” viết năm 1980, in trong công
trình Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã
nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi đã được phê bình, giới thiệu trên
nhiều trang mạng và báo chí thời gian gần đây. Trong chương trình Chủ nhật hôm
nay, BVN xin trích phần đầu bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn
sâu vào một khía cạnh đặc biệt thâm hiểm của tên vua Minh Thành Tổ – kẻ thiết kế
toàn bộ kế hoạch đánh chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người
Việt tàn bạo kinh hoàng, thông qua một chủ trương rất bài bản là xóa sạch tại
chỗ văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc Việt. Những cứ liệu để cập trong
bài được rút từ một cuốn sử Trung Quốc – cuốn Việt kiệu thư越 嶠 書của sử
thần Lý Văn Phượng李 文 鳳, soạn năm 1540.
Bauxite Việt Nam
*********
Vào năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam diễn ra một bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành
lập một triều đại mới – triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử
chế độ phong kiến Trung Hoa cũng đã từng diễn ra một bước ngoặt: nền thống trị
của đế quốc Nguyên – Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên
Chương nhảy lên ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới – triều đại đế
quốc Minh. Trước sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã
lần lượt thế chân các ông chủ cũ. Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi
một chút nào mối quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những
gì trong quá khứ vốn đã quá nặng nề. Những vị Hoàng đế nhà Minh – mới nắm được
“ngôi trời” – cảm thấy mình còn dư sức, con mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh
đất giàu có phương Nam với lòng tự tin rằng, mình có thể làm được cái việc
“chinh phục” Đại Việt mà những đế chế trước mình đã phải bó tay. Về phía các
vua nhà Hồ, cố nhiên họ hiểu rất rõ dã tâm đó của “thiên triều”. Ngay khi vừa
lên ngôi, họ đã tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế rồi, vào ngày
19 tháng Mười một năm 1406, chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng. Nhà Hồ
thất sách về chính trị và sai lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy một năm
sau đành lâm vào thất bại. Vua Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại Việt thành
quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô hộ lên khắp nước ta.
Nhưng nhân dân Đại Việt
vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh giác với kẻ thù phương Bắc, đâu dễ
dàng cam chịu ngồi yên. Và khi mà Minh Thành Tổ tưởng mọi việc đã xong, ra lệnh
cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng chính là lúc một phong trào kháng
chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy. Rồi từ đó, hết phong trào này đến
phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập của xã tắc đã kéo dài hơn 20 năm cho
kỳ đến thắng lợi.
*
*
*
Điều cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với
tất cả vẻ khốc liệt và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức
gay gắt của nó quyết định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong
kiến Tống, Nguyên chẳng cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt,
và về so sánh lực lượng, lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng
như áp đảo kinh hồn? Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm
thực hiện một mưu đồ còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông
thường, của một tên “Đại Hán” mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại
của y có thể đứng vào loại nhất nhì thế giới. Ở tên Đại Hán đó có sự tích lũy
tất cả những kinh nghiệm tàn ác của cha ông y trong quá khứ, kết hợp với những
mánh khóe ranh ma mới mẻ nhất mà thời đại mới mang lại cho y. Chính vì vậy,
nguy cơ của cuộc xâm lăng lần này đã đặt người dân Đại Việt trước một yêu cầu
thức tỉnh toàn diện để có thể đứng vững, hơn thế nữa, để lớn vượt lên. Cuộc đấu
tranh giành lại chủ quyền và xây dựng đất nước của các thế hệ cha ông ta trong
vòng hơn 20 năm (1406 – 1427) rõ ràng là một cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả
đã tạo ra một bước đổi thay lịch sử phi thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của
thế kỷ XV chính là nắm cho được hai điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi
thay lịch sử phi thường đó: kẻ thù là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia
chưa từng thấy, nhưng về mặt mưu đồ và bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện
thân của những tên xâm lược cũ; và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu
nặng nhưng lại là một dân tộc đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu
hiện một sức mạnh hồi sinh.
Ngón đòn cổ điển nhất của
các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là những âm mưu gây hấn đối với Việt Nam.
Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không kém cạnh chút nào so với các triều
đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như tình hình của rất nhiều cuộc “Nam
chinh” trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra đã được “thiên triều” chuẩn bị
chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình thức, phải tìm ra một cái cớ
thích hợp để mà “sinh sự”, và về thực chất, phải làm sao dò thật trúng thực lực
của Đại Việt để lượng sức mình. Hai mặt này thường vẫn gắn chặt với nhau, tác
động lẫn nhau trong quá trình chuẩn bị âm thầm của họ. Năm 1377, chỉ mới chín
năm sau ngày giành được địa vị “con trời”, ông vua Minh đầu tiên đã nóng nảy
muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận trong cuộc thân chinh phương Nam
(1377) mà cất quân sang hỏi… “tội” (!). Nhung “hỏi tội” một vị vua vì “chống
nạn cứu dân” mà không may bị chết? Trước lời lẽ cứng rắn của Trần Đình Thâm, sứ
giả nước ta, vua Minh đuối lý, không những phải cử người sang dự lễ viếng, mà
còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế những toan đem thi thố phen này(1). Dĩ
nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ hẳn, mà chỉ là buộc lòng nén lại những
dự định bên trong ngày một sục sôi. Tháng Chín năm 1384, nhân cho quân lính
tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo công văn đòi nước ta cấp lương cho đạo
quân “tiễu phạt” của y. Ta nhân nhượng. Rồi các năm 1385, 1386, vua Minh vẫn
đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà. Nào bắt nộp hoạn quan, nào muốn tìm
giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để “thiên triều” mang đi đánh trận. Năm
1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm Hanh Thái sang xin ta giúp 5 vạn quân,
50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng ý chộp bắt sứ giả của ta để kiếm
chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho ta biết trước, vì thế ta đã kịp
thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên biên giới rồi rút về ngay chứ không
cấp lính và voi.
Một vài ví dụ như trên
cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến phương Bắc mới phất lên này nóng lòng dòm
ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác, một thực tế cũng dễ thấy là mặc dù rất
tham lam, các ngài ngự “Đại Minh” vẫn phải kéo dài việc chuẩn bị xâm lược suốt
30 năm, từ đời vua cha đến đời vua cháu(2). Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ
đời đó? Chắc hẳn trong khi rút kinh nghiệm quá khứ, bài học thảm bại chưa xa
xôi gì của những kẻ “đi trước” đã không khỏi làm cho các ngài đâm ra e ngại,
trùng trình: “Nước An Nam tuy ở góc biển nhưng xưa kia đã là quận huyện của
Trung Quốc. Từ đời Ngũ quý về sau sức ta không còn chế ngự nổi họ. Qua Tống đến
Nguyên, tuy muốn mưu đồ nhưng không thành, chỉ để tiếng chê cười cho hậu
thế”(3). Đấy là lời thú nhận của Minh Thành Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng
binh Chu Năng – viên tướng đầu tiên cầm quân sang đánh Đại Việt theo lệnh của y
– đề ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Cũng ở sắc chỉ đó còn nêu một
lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên nhân thất bại của Tống và Nguyên:
“Tống cũng như Nguyên đều cho quân sang đánh An Nam, nhưng tướng thì kiêu, binh
thì lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế mà không thành”(4). Sự thật thì tuy
làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên mình, ông Hoàng đế khét tiếng về tham vọng và tàn
bạo này cũng chẳng can đảm hơn bao nhiêu trên vấn đề xâm lược Việt Nam. Năm
1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, tình hình mâu thuẫn và
bế tắc trong tập đoàn phong kiến Trần – Hồ không những không giải quyết được mà
còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn đã có thể kiếm ra rất dễ, điều kiện gây hấn
cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng là năm Minh Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn
đoạt được ngôi từ trong tay cháu ruột của mình; ấy thế mà đối với nước ta, ông
ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho bọn hoạn quan người Việt trở về làm do thám
một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng, ước hẹn ngoài đánh vào thì trong cắm cờ vàng
làm hiệu. Thế rồi, phải ba năm sau nữa, khi mọi yêu cầu tìm hiểu đã được đáp
ứng đầy đủ, cảm thấy không còn một trở ngại nào đáng kể trên con đường tiến
xuống kinh đô Đại Việt, Minh Thành Tổ bấy giờ mới thật quyết tâm khởi thế công.
Một mặt, ông ta vờ làm to chuyện lên rằng đến lúc này không ai còn chịu đựng
nổi những việc Hồ Quý Ly truất ngôi các vị vua Trần và giết hại đám con cháu
nhà Trần (vốn là việc đã xảy ra sáu, bảy năm về trước!): “Bề tôi [cũ của họ
Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm
việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát người trong dòng họ Trần,
cả những bề tôi của họ Trần cũng trong vòng thảm khốc, bị hãm vào chỗ chết. Bọn
chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán
dấy lên đầy đường”(5). Mặt khác, với ngón bịp sở trường từ tổ tiên mình truyền
lại, ông ta lại cũng ra điều ta đây bất nhẫn, không định gây việc can qua làm
gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá lắm nên phải động binh; song động binh mà vẫn rất nhân
từ, muốn thu xếp ổn thỏa bằng cách cho cha con họ Hồ “đem trăm vạn lạng vàng và
một trăm con voi ra chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép đem châu ngọc bảo bối
thế vào cho đủ. Có thế đại quân mới không tiến sang”(6). Kỳ thực, có đúng thế
hay không? Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng viên Tổng binh Chu
Năng – gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai trên đây – Minh Thành
Tổ đã thổ lộ “can tràng” của ông ta: “Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh đem công
văn của Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để cho chí chiến đấu
của chúng buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu Khuyến ra đi,
trẫm từng gặp mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày, nếu 5 ngày
chưa xong thì cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai người mang
tiếp sang nộp cho đủ. Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại quân phải tức
khắc xuất phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và vàng thì cứ bắt
giữ lại để tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi đã bị bắt… Nay
bọn Chu Khuyến vào nước đó, mọi việc ngươi nhất thiết chớ hở ra cho ai
biết”(7).
Gớm ghê thay miệng lưỡi
từ bi và lòng dạ thực của đấng “thiên tử”! Duy có điều là ngay cả vào lúc đó
rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc chỉ căn dặn: nào là “nước An Nam
giàu mạnh đã lâu”(8), nào là “quân lính của họ tất có phòng bị trước”, nào là
“cha con họ Lê – tức họ Hồ – lắm mưu mẹo giảo quyệt”, tuyệt nhiên không
thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng
khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc nhất, sẽ thua mưu kế của
Hồ Quý Ly. Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14 tháng Mười hai năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: “Cứ đóng quân mãi trên sông giằng
co với giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý Ly] nhằm giữ chân quân ta
thật lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được mưu này thì phải thần tốc
không được trì hoãn”(9).
Rõ ràng, vừa khát thèm
lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo ngại, vừa ráo riết sửa soạn lại vừa trù
trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Minh ở thế
kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới mẻ gì đối với nhân dân Việt Nam. Bước ra
quân ban đầu của “thiên triều” phải mang tính chất hai mặt: nhanh mà chậm, nóng
mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ, cũng chính là vì vậy.
*
* *
Tuy nhiên, đấy chỉ là cái
dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta, thấy rõ chỗ thất thế
của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và hành vi táo tợn. Một
chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để tiến thẳng đến Thăng
Long, và từ Thăng Long đánh tỏa xuống phía Nam, được thi hành. Một chế độ thống
trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi miền, thành thị cũng như
nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến. Và một chính sách chém giết thẳng tay cũng
được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng. “Trương Phụ đi đến đâu là giết hại,
hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt
người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng
người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để tính làm hai mạng
người”(10).
Có thể nói, nói đến đặc
điểm thứ hai trong chân dung của tên xâm lược mới ở thế kỷ XV là nói đến hình
ảnh các viên quan cai trị nhà binh với tất cả những thủ đoạn giết người –
trị người – dùng người gắn bó với nhau một cách tinh vi và nham hiểm. Sau
nhiều lần cố gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển Canh, Kỳ La,… nhưng đều
thất bại, vào tháng Sáu năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và bị bắt ở núi Thiên Cầm.
Cả nước rơi vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh, một công trường lao
dịch khổ sai, một nơi để giặc Minh thỏa sức tìm tòi thức ngon của quý. Ngay
trong những ngày đang trên đường tiến sang nước ta, bọn tướng tá viễn chinh đã
nhận được sắc chỉ của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là phải tịch thu hết giấy tờ,
sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải lập ngay chế độ thuế khóa
trên những vùng vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác các mỏ bạc, mỏ vàng. Kể cả
những mỏ nằm trên biên giới Việt – Chiêm, chưa rõ thuộc phần đất bên nào, cũng
được lệnh cứ cướp lấy chứ không cần tra xét hư thực(11). Hai cơ quan Kim trường
cục và Châu trường cục được thành lập, nhằm xua dân miền biển và miền núi vào
mọi công việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc. Chưa hết. Còn chế độ lao dịch ở đồng
quê, ở thành thị… Đâu đâu cũng cái cảnh “bị người Minh sai khiến mà mất cả gia
thuộc”(12), “bị bắt hết làm nô tỳ và chuyển bán đi mà tan tác bốn phương” (13).
Đẩy nhân dân Đại Việt đến
chân tường, giặc Minh phải đâu đã thỏa. Chúng còn tìm cách thâu tóm vào tay
mình hoặc nếu không thì triệt cho hết trong đám người còn sống sót những ai
thật sự có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các châu quận nước ta có thầy hay, thợ
giỏi, bọn quan cai trị đều cho lập danh sách đem “tiến” về Yên Kinh. Các loại
người bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ thủ công, ca nữ tuyệt sắc, thầy bói
và thầy địa lý;…
Mỗi năm Minh hoàng lại
gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người dân Việt lại lìa bỏ gia đình xứ
sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về.
Nhưng cho dù có tìm mọi
mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ sung cho những cuộc tàn sát hàng loạt
thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị vẹn toàn. Giặc Minh biết vậy nên cũng
lại ra sức thi hành một chính sách “mặt trái” rất khôn khéo: chính sách mỵ dân.
Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản dặn đám tướng tá: hễ người dân Việt nào
chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã đầu hàng thì phải tha ra, không giết
bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài nhân từ có một. Có ngờ đâu, tha, theo ý
ngài, là bắt đem “cung hình” (thiến) nhất là đối với lớp người Việt trẻ(15),
sau đó cung cấp cho cái chế độ quan liêu đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất
thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ!
Đặc biệt, trong chính
sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng vượt hơn những kẻ xâm lược xưa kia
một bước rất dài. Trừ những chức quan cao cấp ra, chúng đặt người Việt vào mọi
địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống. Và một chính sách lục dụng đám trí
thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố trong rất nhiều đạo sắc từ 1406 đến
mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã nổi dậy, có thể nói là nhiều nhất
trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề Việt Nam. Đây quả là một đường lối
mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng. Có trường hợp những người có tên
tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Phạm
Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,… chính vua Minh trực tiếp chỉ thị
phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp khác như Bùi Bá Kỳ, bọn quan lại
dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy sang Minh cầu cứu đến chỗ mất hết
lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống chỉ rút kinh nghiệm về việc “dùng
người” và than thở không thôi(17). Sự chu đáo trong chính sách “chiêu hồi” này
còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả đều được lập thành danh sách, mời
về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng
đế “bồi dưỡng về lập trường quan điểm”, rồi sau đấy lại được trả trở về Giao
Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18).
Nhưng thủ đoạn mỵ dân mà
nhà Minh lưu tâm hàng đầu – và từ đây cũng sẽ đẻ ra nhiều nhiệm vụ phức tạp cho
cuộc đấu tranh chính trị chống xâm lược – chính là một phương sách hai mặt: vừa
triệt để thống nhất về bản chất với những tên xâm lược trong quá khứ, lại vừa
làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có một bước ly khai.
Ngay trong đạo sắc 10
điều của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21 – 8 – 1406)
gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng trên đường y cất quân sang Đại Việt, đã dẫn
một phần ở trên, có một điều thứ tư rất đáng chú ý: “Hỏi xem cột đồng trụ hiện
dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném ra ngoài đường, để cho nguời trong nước đều
trông thấy”(19).
Chắc ai cũng phải lấy làm
lạ: một bằng chứng “chinh phục” tiếng tăm của Mã Phục Ba thời Hán, cũng là một
dấu vết của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá chồng lên cho mất
tích, ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi?
Ông ta hớ hênh dại dột,
hay ngông cuồng, hay thật bụng nhân đức?
Đâu có phải vậy!
Thực tình Minh Thành Tổ
coi đây là một việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm sau đó, ông
ta còn nhắc lại điều này(20). Dám hy sinh đến cả “sự nghiệp” vênh vang của
“tiền nhân”, phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV muốn nhờ đấy đánh đổi
lấy một bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào cái bản chất “một đồng
một cốt” giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung hoành? Có lẽ! Nhưng chắc
chắn còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương máu đã cho tên trùm Đại
Hán thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay. Một cột đồng trụ những
tưởng nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái mốc “chiến bại”,
thì rốt cuộc cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả những thứ
cột mốc hình thức kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng – mà ngay nhiều tên xâm
lược cũng phải đành lòng thừa nhận – cứ tự nó phát huy tác dụng: “… dù có cướp
được nước họ thì rồi cũng không thể giữ được”(21). Có nghĩa là chỗ khó khăn
nhất, mà quả là khó, là làm sao biến
được dân tộc Việt thành người Trung Quốc, để vĩnh viễn họ không còn tìm cách
nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận huyện của “thiên triều”? Thủ đoạn
đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính là một cách lý giải mới đối với
bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những ràng buộc vô hiệu bề ngoài mà
tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là những trói buộc nghiệt ngã trên
lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất chuyên chế, độc đoán về sinh
hoạt tinh thần.
Lần đầu tiên, trong lịch
sử xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể phong kiến Trung Quốc, tên xâm lược nhà
Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ tư tưởng đối với xã hội Việt Nam. Trong
bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407, sau khi chiếm xong nước ta, Minh Thành
Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn mạnh rằng, một trong những tội trạng
của Hồ Quý Ly khiến “ngài” không thể không “chinh thảo”, là họ Hồ đã tự coi
“đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương,
Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu
Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di], Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng
[Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp”(22), v.v. Cơn giận của “ngài” kể cũng dễ
hiểu, bởi một nước tự xưng là “thần tử” của Hoa hạ làm sao có thể dám coi
thường cái đạo mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc tôn thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa
nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì mới dễ dàng phát huy ảnh hưởng
của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ Khổng là “làm cho xa thư về một
mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ” thì há miệng mắc quai, cúi mọp
đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu.
Dù sao, vấn đề không chỉ giản đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy
đạo Nho để thống trị nhân dân Đại Việt, nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn.
Cuồng vọng bá chủ sôi sục khiến y cảm thấy như thế vẫn chưa thỏa lòng. Tốt nhất
là làm sao cho nước “man di” kia không còn có gì gọi là long mạch tư tưởng,
tinh thần. Y muốn xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ bé phương Nam đầy sức tự cường mà
trong lòng nhiều thế hệ những tên giặc Bắc vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý
thức về quá khứ lịch sử của chính họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một
dân tộc chính là cách cắt đứt nguồn tiếp sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ
vào chỗ mù mịt tối tăm, phá tan đi cái nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh
thành. Muốn vậy phải làm thế nào? Không có cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá
không thương tiếc tất cả những gì là sản phẩm trí tuệ của dân tộc này, nó là
biểu trưng cho văn minh, văn hóa. Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi
Tổng binh Chu Năng đã nói ở trên, bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế
ngự “hỏa khí” lợi hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân
khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá cột đồng trụ,… còn một điều đặc biệt hơn mọi
điều kia: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của
đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự,
cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có
câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết.
Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ
gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một
chữ chớ để còn”(23).
Thử lần tìm cái động cơ
chính ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua Minh nói: tất cả những gì thuộc nền văn
hóa chính quốc Trung Hoa, kể cả sách kinh của Phật và Lão, đều được giữ lại đầy
đủ. Trái lại, bao nhiêu trước tác thuần túy Việt Nam thì đều phải phá hủy. Vậy
ra, sự lựa chọn của y chẳng phải là đạo Nho hay một hệ tư tưởng chính thống nào
cả. Đối với người Giao Chỉ cũng như các dân tộc bị y xâm lược, y chỉ cần một sự
lựa chọn đơn giản, mà lại thực dụng hơn nhiều: hãy bắt họ từ bỏ tất cả những gì
sinh ra trong đầu óc của chính dân tộc họ kể cả trong quá trình tiếp nhận những
gì là vốn liếng tinh thần của “nước mẹ Đại Minh”. Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn
bắt các dân tộc thôi đừng có tự mình tư tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có
nghĩa là… không tồn tại.
Thế rồi, từ trong thâm cung tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày
đêm lo theo dõi, đôn đốc việc thi hành lệnh chỉ đã ban ra. Đến nỗi khi thấy có
một bộ phận quân lính không chịu làm theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay
sách vở cướp được của nước ta mà còn giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai
nhắc lại đúng những điều đã chỉ thị từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt
ngay tại chỗ chứ không nên giữ lại: “Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An
Nam có tất thảy những sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách
dạy trẻ, như loại “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều
phải đốt hết, và tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ
trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để sót lại. Nay nghe nói những sách vở do
quân lính bắt được, không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân
lính phần đông không biết chữ, nếu đâu đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ
mất mát nhiều. Từ nay các ngươi phải làm đúng như lời sắc trước, truyền cho
quân lính hễ thấy sách vở văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được
lưu lại”(24).
Dĩ nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng
cảm thấy một chủ trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến
làm nổ bùng lòng căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây
chuyền của sự bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế,
đi kèm với những điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín
chủ trương của mình. Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá
hoại về căn bản đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 – 6 – 1407),
y lại gửi một sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải
cấp tốc thu hồi những đạo dụ y đã ban ra từ trước: “Nay An Nam đã bình định
xong; [...] trừ các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các
ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc
công đã lĩnh, hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số
kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ.
Nếu có một chữ bỏ lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện”(26).
Tưởng cũng khó có thể chê
trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ trong việc xếp đặt đâu ra đấy từng
bước “tiến”, “thoái”, “thắt”, “cởi” cho mọi hành động tàn phá kinh khủng nhất
của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y thâm thúy đến mức đẩy đối tượng bị
tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư vô, không còn quá khứ cũng không
còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần “tự diệt”, thì nghệ thuật xóa dấu vết của y
cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có thể hùng hổ la làng rằng bị cướp
đe dọa. Âu đây chính là những dáng nét hiện đại nhất của tên xâm lược Đại Hán ở
thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản chất xâm lược dã man của nhiều thế hệ
cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được nhân lên, biến hóa sinh động hơn
những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm kia còn rất quen thuộc mà nay đã
bị xem là quá cổ lỗ và thật thà.
N.H.C.
Chú
thích:
(1)
Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học
xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 189.
(2) Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối
ngôi thì chú y, tức Chu Đệ 朱棣 liền cướp lấy mà lập ra triều đại thứ ba của
nhà Minh (1402 – 1424), tức Minh Thành Tổ.
(3) Lý
Văn Phượng 李 文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540). Đây là một tài liệu quý, ghi chép khá
đủ theo trật tự thời gian những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi đều đặn
(thường là vài ngày một đạo) đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm lăng Đại Việt
1406-1407. Trước đây chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất văn bản cuốn sách này của
Thư viện Viện Khoa học xã hội vốn là sách của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cũ, ký
hiệu: 1731, (nay thay đổi ký hiệu là: VH. 000276), nhưng năm 2001, sang làm
việc ở Thư viện Yenching Harvard, tìm thêm được văn bản do Tề Lỗ thư xã xuất
bản, Nam Kinh, 1996. Tuy vậy, trong bài này, vẫn xin ghi chú số quyển và trang
theo bản của Thư viện Viện Khoa học xã hội để cho thống nhất. VH. 000276, Q. 2,
tờ 19a: 今 安 南 雖 在 海 陬 。自 昔 為 中 國 郡 縣 。五 季 以 來 力不 能 制 。歷 宋 及 元 雖 欲 圖 之 而 功 無 所 成 。貽 笑 後 世 (Kim An Nam tuy tại hải tưu, tự tích vi
Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý dĩ lai lực bất năng chế. Lịch Tống cập
Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở thành, di tiếu hậu thế).
(4) Việt
kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 20a (Điều ghi chú thứ 9 trong 18 điều khoản kèm
theo tờ sắc này): 宋 元 皆 發 兵 征 討 安 南。將 驕 兵 懦。貪 財 好 色。以 此 不 能 成 (Tống Nguyên giai phát binh chinh thảo An
Nam, tướng kiêu binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ thử bất năng thành).
(5)
“Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh
Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 27b. Nguyên văn: 其 臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎 狼 之 心 。竟 為 吞 噬 之 。舉 弒 其 國 王。 戕 其 本 宗。覃 被 陪 臣 重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺 戮 。毒 病 生 民 。雞 犬 弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ
thần [Lê ] Quý Ly, Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ
chi, cử thí kỳ quốc vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm
khốc, bồi khắc sát lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái
lộ).
(6) Sắc
chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2, tờ 18a. Nguyên văn: 今 廣 西 奏 。安 南 遣 人 來 貢 謝 罪 。原 胡 奄 。 父 子 罪本 難 容 。 今 既 改 過 自 新 。只 著 他 辨 黃 金 五 萬 。象 一 百 隻 。以 贖 其 罪 。 金 象 不 足 。許 以 珠 玉 寶 貝 代 之 。以 足 其 數 即 止 。大軍 不 進 (Kim
Quảng Tây tấu: An Nam khiển nhân lai cống tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản
nan dung. Kim ký cải quá tự tân, chỉ trước tha biện hoàng kim ngũ vạn,
tượng nhất bách chích, dĩ thục kỳ tội. Kim tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo
bối đại chi, dĩ túc kỳ số tức chỉ, đại quân bất tiến).
(7)
Điều thứ 10 trong 10 điều thuộc sắc chỉ bí mật xếp thứ tự sát ngay sau đạo sắc
ban bố ngày 4 tháng 7 nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Q. 2, tờ 17b. (Điều thứ
10 trong 10 điều căn dặn kèm theo tờ sắc này): 今 遣 朱 勸 張 瑛 齎 禮 部 咨 文 往 安 南 索 其 金 象。此 計蓋 欲 弛 其 鬥志。非 真 實 意 也 。 朱 勸 等 臨 行 朕 曾 面 諭 之 。今 到彼 只 住 五 日 。若 五 日 內 措 辨不 足 。 許 隨 多 少 先 將 來 。 後 卻 差 人 納 足 。爾 待 朱 勸 等 人 去 。大 軍隨 後亦 進 。 若 遇 差 出 納 金 象 之 人 就 執 之 。訖 問 聲 息 。 須 勿 令彼 知 差 來 被 執。今 朱 勸 等 到 處 。爾 事 機 切 不 可 令 人 知 之 (Kim khiển Chu Khuyến, Trương Anh tu Lễ bộ
tu văn vãng An Nam sách kỳ kim tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi
chân thực ý dã. Chu Khuyến đẳng lâm hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ
trú ngũ nhật. Nhược ngũ nhật nội thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương
lai, hậu khước sai nhân nạp túc. Nhĩ đãi Chu Khuyến đẳng nhân khứ, đại quân tùy
hậu diệc tiến. Nhuợc ngộ sai xuất nạp kim tượng chi nhân tựu chấp chi, cật vấn
thanh tức. Tu vật linh bỉ tri sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ
sự cơ thiết bất khả linh nhân tri chi).
(8) Sắc
chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd,
Q. 2, tờ 20a: 安 南 自 我 朝 以 來 [. . .] 數 十 年 不 曾 用 兵 。其 國 中富 庶 (An Nam tự ngã triều dĩ lai, [...] sổ thập niên
bất tằng dụng binh, kỳ quốc trung phú thứ).
(9) Việt
kiệu thư, Sđd; Q. 2, tờ 24a. Nguyên văn: 頓 兵 江 上 與 賊 相 持 。黎 賊 之 計 正 欲 持 久 以 待 瘴 癘 之 發 。破 之 貴在 神 速 。不 宜 遲 緩 (Đốn binh giang thượng dữ tặc tương trì, Lê
tặc chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi chướng lệ phát. Phá chi quý tại thần
tốc, bất nghi trì hoãn).
(10) Đại
Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 262.
(11) Việt
kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 22a đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4
(1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安 南 金 場 。銀 場 遙 聞 原 是 占 城 之 地 而 界 相 爭 已 久 。亦 未 可 信 。平 定 之 後 。只 以 見 得 地 界 為 準 。縱 然 占城 有 請 亦 不 可 擬 還 (An Nam kim trường, ngân trường dao văn
nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương tranh dĩ cửu, diệc vị khả
tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi chuẩn. Túng nhiên
Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là: Từ xa trẫm nghe
nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai bên tranh chấp
đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa giới mà mình
trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả.
(12),
(13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd;
tr. 250, 262.
(14)
Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu
thư, Sđd, Q. 2, tờ 23b. Nguyên văn: 大 軍 入安 南 。但 有 助 黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之 。 若 有 能 棄 甲卻 戈 降 者 。一 人 不 可 妄 殺 (Đại
quân nhập An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai cự địch giả, sát chi. Nhược hữu năng
khí giáp khước qua hàng giả, nhất nhân bất khả võng sát).
(15)
Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2, tờ 22b. Nguyên văn: 其 有 年少 而 罪 當 死 者 。宜 處 以 宮 刑 。亦 可 以 保 全 其 命 。他 日 又 得 以 克 使 令 (Kỳ
hữu niên thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn
kỳ mệnh, tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh).
(16)
Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2, tờ 37b.
(17)
Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2, tờ 29b. Nguyên văn: 敕 傳 奏言 裴 伯 耆 事 為 將 之 。道 在 於 用 人 。一 裴 伯 耆 不 能 用 何 以 能 成 事 功 俠 。朕 有 南 鄙 又 憂 。古 人 用 人 之法 具 右 方 冊 。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc
truyền tấu ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi. Đạo tại ư dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ
bất năng dụng, hà dĩ năng thành sự công hiệp? Trẫm hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân
dụng nhân chi pháp cụ hữu phương sách, nhĩ nghi thẩm quan cố sắc).
(18)
Sắc chỉ đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư,
Q. 2, tờ 25b – 26a. Nguyên văn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者 。即 陸 續遣 之 來 朝 。聽 朕 面 諭 。給 與 印 信 俾 還 管 事 。如 或 事 世 未 可 又 在 。隨 宜 處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam quan lại lai quy hàng giả, tức
lục tục khiển chi lai triều, thính trẫm diện dụ, cấp dữ ấn tín, tỷ hoàn quản
sự. Nhu hoặc sự thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử trí, bất khả chấp nhất).
(19)
Điều thứ 4 trong 10 điều thuộc sắc chỉ bí mật xếp thứ tự sát ngay sau đạo sắc
ban bố ngày 4 tháng 7 nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Q. 2, tờ 17a. Nguyên
văn: 訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦 便 碎 之。 委 之 於 道以 示 國 人 (Phỏng
vấn cổ thời đồng trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân).
(20)
Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 9 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5
(1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 25b.
(21)
Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm 1427. Một viên
quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua Minh những lời
tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu dịch,
NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47.
(22)
“Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh
Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 27b. Nguyên văn: 自 以 為 道 優 於 三 王 。 德 高 於 五 帝 。以 禹 湯 文 武 不 足 法 。周 公 孔 子 為 不 足 師 。毀 孟 子 為盜 儒 。謗 周 程 張 朱 為 剽 竊 。欺 聖 欺 天 。無 倫 無 理 (…
tự dĩ vi đạo ưu ư Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp,
Chu Công Khổng Tử vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương
Chu vi phiếu thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý).
(23)
Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, xếp thứ tự sát ngay sau
đạo sắc ban bố ngày 4 tháng 7 nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Q. 2, tờ 16a –
17b. Nguyên văn: 兵 入 。除 釋 道經 板 經 文 不 燬 。外 一 切 書 板 文 字 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習 。如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻 字 悉 皆 燬 之 。其境 內 中 國 所 立 碑 刻 則 存 之 。 但 是 安 南 所 立 者 悉 壞 之 。 一 字 不 存 (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh
văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập,
như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi.
Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả
tất hoại chi, nhất tự bất tồn).
(24)
Điều khoản bổ sung vào sắc chỉ đề ngày 21 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Q.
2, tờ 33a. Nguyên văn: 屢 嘗 諭爾 凡 安 南 所 有 一 切 書 板 文 字 。 以 至 俚俗 童 蒙 所 習 。 如 上 大人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻字及 彼 處 自 立 碑 刻 。見 者 即 便 毀 壞勿存 。今 聞 軍 中 所 得 文 字 不 即 令 軍 人 焚 毀 。必檢 視 然 後 焚 之 。 且 軍 人多 不 識 字 。 若 一 一令 其 如 此 。必 致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾 今 宜 一 如 前 敕 。號 令 軍 中 但 遇 彼 處 所 有 一 應 文 字 即 便 焚 毀 。 毋 得 存 留 (Lũ thường dụ nhĩ, phàm An Nam sở hữu nhất
thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng
đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự cập bỉ xứ tự lập bi khắc,
kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn. Kim văn quân trung sở đắc văn tự bất tức
lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên hậu phần chi. Thả quân nhân đa bất
thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử, tất trí truyền đệ di thất giả đa. Nhĩ
kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh quân trung đãn ngộ bỉ xứ sở hữu nhất ứng
văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn lưu).
(25) Chỉ người Việt.
(26)
Sắc chỉ đề ngày19 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2, tờ 32a. Nguyên văn: 今 安 南 已 平 [. . .] 除 制 諭 外 應 發 去手 敕及 記 事 小 帖 成 國 公 領 帶 去 小 冊 子。及 條 畫 事 件 。盡 數 檢 對 。 密 封 繳 來。 不 許 存 留 一 字 。 漏 落 在 彼 不 便 (Kim An Nam dĩ bình [. . .] Trừ
chế dụ ngoại ứng phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành Quốc công lĩnh
đới khứ tiểu sách tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối, mật phong kiểu
lai. Bất hứa tồn lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện).
........./.