"mặt trái" của đê điều

Trận lụt lịch sử và "mặt trái" của đê điều

[ trích ]

Đối với trận mưa lụt lịch sử vừa qua ở vùng Hà Nội và đồng bằng miền Bắc, đã có một vài cắt nghĩa được nêu ra, trong đó dữ kiện tỏ ra đáng kể nhất là lượng mưa quá lớn trong một thời gian rất ngắn, v.v… Tuy vậy, trong chuyện này còn có cả một hệ quả lịch sử lâu dài mà chưa thấy ai nhắc đến. Ấy là việc xử lý quan hệ giữa đồng bằng và các dòng sông.


Ai cũng biết quy luật nước chảy chỗ trũng. Vậy thì mưa xuống, nước phải chảy ra ruộng, ao, hồ, sông, suối. Thế mà với đợt mưa này, người ta lại được chứng kiến một nghịch cảnh: nước sông Hồng nhiều lắm cũng chỉ trên mức báo động 1, tức là nước sông suốt thời gian trận mưa này vẫn khá vơi. Chính lúc đó, nước trong phố Hà Nội lại ngập từ nửa mét đến một vài mét,

….nước trong phố trong đồng lại không thể chảy xuống sông Hồng và các sông khác để trôi ra biển! Vì sao?

Chính vì các con đê đã có từ hàng mấy trăm năm nay!

Trận mưa lụt, như vậy, khiến chúng ta dù sao cũng phải nghĩ thêm về mặt trái của đê điều ở đồng bằng miền Bắc.

….Một số chuyên gia địa chất nhắc chúng ta một thứ “quy tắc” của tự nhiên, ấy là: dòng sông tạo ra đồng bằng phải được “chung sống” với chính cái đồng bằng mà nó tạo ra


Khi người ta ngăn cách lòng sông với đồng bằng của nó …
…..hệ quả là đồng bằng không được bồi thêm phù sa, trong khi đáy các con sông càng ngày càng bị nâng cao lên, do lượng phù sa chỉ có thể đọng lại ở đáy sông. Không chỉ trong giới các nhà kỹ thuật, ngay trong dân gian người ta từ lâu cũng biết rằng “cốt” đáy sông Hồng cao hơn mặt sân ga Hàng Cỏ! Vậy mà hệ thống đê của sông Hồng và của các con sông khác luôn luôn đứng trước nhu cầu phải được tôn cao thêm lên mỗi năm. Rốt cuộc các sông, nhất là Hồng, về mùa lũ sẽ có hình thế giống như những máng nước khổng lồ treo cao trên đồng ruộng làng mạc Bắc Bộ. Đê vỡ là một nguy cơ thường trực...

Nguyễn Trường Tộ (1827 – 1871) có lẽ là người Việt đầu tiên nhận ra mặt trái của hệ đê điều ở đồng bằng Bắc Bộ. Chủ trương đắp đê quai vạc của các triều đại trước, theo ông, là bắt chước theo lối “nhai lại mà không tiêu hoá” hệ đê sông Hoàng Hà của Trung Hoa. Không phải ngẫu nhiên hồi những năm 1920, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã toan phá bỏ hệ thống đê sông Hồng. Tất nhiên rồi họ cũng phải mãi mãi từ bỏ dự định ấy, tức là cũng bó tay trước hậu quả lâu dài do lịch sử đắp đê hàng trăm năm của xứ này để lại.

…..

Nhân dịp ôn lại bài học về tác hại của đê điều như một hậu quả do lịch sử để lại, điều còn tính thời sự có lẽ là nhắc nhở rằng, giới quản lý xã hội và cả giới kỹ thuật nữa, đừng đem “tư duy sông Hồng” áp đặt cho hệ thống sông Cửu Long, rằng sống với “mùa nước nổi” vẫn là cách thức hay nhất, hợp thời đại nhất, đối với đồng bằng sông Cửu Long.

12/11/2008
Lại Nguyên Ân (Nhà nghiên cứu)