DỦ HỌC DỦ NGU
Nguyễn Đức Lập
https://www.facebook.com/notes/711938205519010/
Nghe cái câu “dủ học dủ ngu”, càng học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì càng phải khôn ra, cũng như gừng, quế, “dủ lão dủ tân”, càng già càng cay, mới phải cho chớ.
Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh cắc cớ, rắn mắt đã quen, nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho học được theo ý của nó để cười chơi. Học tới câu “dủ học dủ ngu”, tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắt cắc cớ đã quen mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy: - “Dủ học dủ ngu” là “càng học càng ngu”, thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngu. Thằng em gật đầu khoái trá. Ai dè cha tôi đang đứng sau lưng. Tôi bị năm roi quắn đít và học một bài học nhớ đời: “Chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra đùa giỡn được.”
Không biết ông Mai Thảo có học một bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông không dùng “chữ nghĩa thánh hiền”, mà ông dùng hai chữ “văn chương”. Ông nói: “Đối với văn chương phải nghiêm túc, không đùa giỡn được”. Ông có thể lơ ngơ thất thểu ngoài đường phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt vì tội phạm luật lưu thông. Ông có thể lè nhè nơi tiệm rượu khiến con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.
Bị đòn, bị học một bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng “càng học càng ngu”. Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng nầy tới văn bằng kia và ra trường với một nghề vững chắc trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép, cho được già giặn thêm một chút (phải xin phép để râu vì cha tôi quan niệm rằng: “cha chưa chết, con không được để râu”). Cho tới khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà học đường và sách vở không hề dạy. Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy kiến thức của mình “thiên bất đáo, địa bất chí,” càng học càng thấy ngu. Chưa cần nói tới những chuyện trời cao, đất rộng, biển thẳm, núi cao, sông dài chi cho xa, chỉ những câu ca dao, những câu hát ru em, huê tình, tai vẫn nghe hoài, miệng cũng có khi hát, tưởng rằng đã hiểu cháo chan, ai dè biết ra, không hiểu một cái gì hết.
Hồi nhỏ, chị tôi ru em, vẫn thường hát câu: “Chim quyên ăn trái ổi tàu. Xứng đôi mẹ gả, ham giàu làm chi”. Tôi nghe câu nầy tới thuộc lòng mà không hề thắc mắc. Dễ quá mà, “ổi tàu” là giống ổi ở bên Tàu chớ còn gì nữa. Giống ổi ở bên Tàu, dĩ nhiên, phải lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng giống như con ngựa to lớn thì được gọi là ngựa Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu… Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi tới hơn nửa đời người, đọc được một bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng “ổi tàu” ở trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là một loại cây hoang, mọc thành từng lùm, từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung. Cây nầy ở miền Bắc gọi là hoa cứt lợn, còn ở cái xứ “chó ăn đá, gà ăn muối” của tôi thì gọi là bông ngũ sắc. Tôi đã từng hái trái của nó, lớn chỉ bằng hột tiêu, để ăn, đã từng hái những cái bông của nó để hút chất mật ngọt ngọt ở cuống bông, mà đâu biết tên của nó là ổi tàu. Mẹ tôi vẫn thường hái bông ổi tàu nầy, chưng với đường phèn, cho anh em tôi uống, mỗi khi bị ho.
Có một câu hát ru em nữa, mà tôi cũng nghe đi nghe lại hoài: “Trách ai ăn giấy bỏ bìa. Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”. Câu nầy thì tôi có thắc mắc. Giấy thì làm sao mà ăn? “Ăn giấy bỏ bìa” là làm sao? Tại sao hạng người “ăn giấy bỏ bìa” khi thương lại thương vội, khi lìa lại một mạch lìa luôn theo kiểu “hạ thủ bất lưu tình?”. Tôi đem những thắc mắc nầy hỏi nhiều người. Kể cả những ông thầy dạy Việt văn, nhưng không có ai trả lời nghe xuôi tai được. Cho mãi tới sau khi đổi đời, “giả dại qua ải” (mà chút xíu nữa thành dại thiệt), tôi về ở rẫy, tôi mới nghe được giải thích một cách thỏa đáng câu hát nầy. Người dạy tôi là bà Ba Thời. Bà nầy cạo đầu, ăn chay trường, tu tại gia, không ăn trầu, nhưng hút thuốc phun khói còn hơn đầu máy xe lửa. Bà có biệt tài chữa bịnh bằng phương pháp cắt lể rất mát tay. Nhiều người, trong đó có tôi, nhờ bà chữa trị mà lành bịnh. Đặc biệt, bà có ba con dao để lể, một cái bằng vàng, một cái bằng bạc, một cái bằng đồng, cái nào cũng chỉ lớn bằng cây móc tai. Tùy theo con bịnh nặng nhẹ mà bà dùng con dao nào để lể. Bà, người nẩm thấp, hơi nới về chiều ngang, mấy ngón tay mủm mỉm no tròn như nãi chuối cao, nhưng cắt lể cho bịnh nhơn, bà làm coi bộ gọn gàng, nhặm lẹ khéo léo lắm. Tôi khoái nhất là cái màn được bà xe xe mấy sợi tóc, rồi giựt nghe cốc cốc.
Đọc tới đây, xin độc giả đừng vội lên án tôi là tuyên truyền đề cao những phương pháp chữa bịnh thiếu khoa học hay đúng theo khoa học, biết làm sao mà nói cho cùng. Tôi viết ra đây là theo những điều chính tôi đã từng trải qua, theo kiểu “thấy mà tin”, chớ không hề thuyết phục ai phải tin theo mình cả. Hồi 77, 78, trong nước bị khủng hoảng kinh tế nặng, một trăm thứ bịnh đều chữa bằng xuyên tâm liên, sống ở rẫy, nếu không có những người như bà Ba Thời, bà Tám Thông, có lẽ tôi đã ấm mồ xanh cỏ từ lâu. Bà Tám Thông cũng chuyên về giác lể như bà Ba Thời, nhưng hành nghề chánh thức. Mỗi ngày, bà quảy gánh, đem đồ nghề ra chợ Phú Mỹ (nằm trên quốc lộ 15, đường Sài Gòn-Vũng Tàu), giác lể, ăn tiền. Bà Ba Thời chỉ cắt có một vết nhỏ, rồi nặn ra một chút máu. Bà còn dùng bông gòn sạch, tẩm dầu tràm, chặm lên vết thương đàng hoàng. Còn bà Tám Thông, sau khi cắt, dùng bầu thủy tinh giác hơi để hút máu. Bà nầy làm ăn rất bầy hầy. Bà dùng một nùi giẻ rách bươm, lau máu lau vết thương cho bịnh nhơn. Không biết một năm bà giặt được mấy lần, nùi giẻ dơ hầy, hôi rình. Bởi lối chữa bịnh của bà Tám Thông làm mất máu nhiều quá, trong thời buổi ăn khoai mì cầm hơi, một giọt máu còn quí hơn vàng và bởi cái lối làm ăn của bà thiếu vệ sinh quá, nên tôi chỉ nhờ bà ra tay có một lần. Độ ấy, cứ chiều chiều là tôi cảm thấy bị ớn lạnh, tay chân bải hoải. Bịnh kéo dài cả tháng không hết. Một người hàng xóm là thiếm Sáu Liệt, nói tôi bị trúng nước, nếu không chữa trị cho sớm, để lậm vô phổi, thì chỉ có “bà cứu nị”. Và, thiếm giới thiệu tôi tới bà Tám Thông. Vừa nằm dài, đưa lưng trần cho bà cắt giác, mà tôi nhờm gớm cái gì đâu. Tôi nhủ thầm là tự hậu, không bao giờ tới bà lần thứ hai. Quả thiệt như vậy, tôi không tới gặp bà một lần nào nữa, vì chỉ một lần chữa trị đó, bịnh hết hẳn. Mấy chuyện như vậy, biết nói sao cho cùng?
Cái chuyện cắt lể khiến cho tôi nói sang đàng, xin trở về đề tài “ăn giấy bỏ bìa”. Bữa ấy, tôi ráng lặn lội qua nhà bà Ba Thời để nhờ bà trị cho cái chứng thiên đầu thống, đau đầu có một bên. Bà lấy cây kim vàng ra lể. Nói không phải để quảng cáo cho bà, bà chữa bịnh đâu có nhận tiền thù lao, chỉ cứu nhơn độ thế mà thôi, vả chăng, bà mất đã mười năm có lẻ, cát bụi trở về với cát bụi lâu rồi, đâu cần tôi phải quảng cáo. Bà cắt lể, giựt tóc nghe cốc cốc cho tôi một hồi, bịnh mười phần nhẹ hết tám, chín. Bà chỉ vô cái võng treo tùng tơn ở góc nhà, biểu tôi: “Thằng Tám mầy nằm đó, đánh một giấc đi. Ngủ một giấc, mầy sẽ hết nhức đầu luôn”. Nằm trên võng, chưa ngủ được, tình cờ mà tôi học được thế nào là “ăn giấy bỏ bìa”. Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhựt trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi lần nữa, rồi lại xếp đôi nữa. Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói: - Rọc giấy như vầy kêu bằng ăn giấy. Miếng giấy tao rọc làm tám vun, kêu bằng ăn tám. Nhiều người hà tiện rọc thành mười sáu vun, kêu bằng ăn mười sáu. Nhưng giấy ăn mười sáu, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ ba hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn tám, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã.
Không chờ không đợi mà tôi mừng còn hơn là khi không mà bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga: “Trách ai ăn giấy bỏ bìa. Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”. Bà cắt nghĩa liền: - Thằng Tám, mầy thấy không? Giấy quyển đâu có bìa, hổng có cái gì đáng phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữu. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa ấy chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lãng nhách, mà lại kiêu càng phí phạm bạc hãnh không ai bằng. Bà ngậm ngùi ngang: - Tao khổ gần một đời cũng vì ba cái quân “ăn giấy bỏ bìa” nầy đây… Bị, hồi đó, tao nghèo quá…
Té ra, giấy ở đây là giấy quyến để vấn thuốc và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không có lẽ bỏ vô miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được tại sao cái kẻ “ăn giấy bỏ bìa” lại “khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.” Khi tôi cảm ơn vì đã học được, đã được giải thích tường tận những điều thắc mắc ôm ấp từ lâu, thì ba Ba Thời cười, khoe hàm răng ám khói vàng khè: - Tao mà dạy cái gì? Chữ nghĩa của tao vừa đủ để ký tên. Đây là tay tao làm, miệng tao nói, cho vui vậy thôi…
Có người sẽ trách rằng tại làm sao mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của một người phụ nữ quê mùa ít học một cách dễ dàng như vậy. Trách tôi thì tôi chịu. Thú thật, tôi vẫn còn đem những thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa” ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết. Có một lần, đọc trên một tờ báo, nơi mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa”, hỏi rằng giấy làm sao mà ăn được. Người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại là “trách ai được giấy bỏ bìa” mới đúng. Đọc tới đó, tôi bỗng ngậm ngùi, vì phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâu. Bà, bây giờ, đã ra người thiên cổ, một chữ cũng là thầy, huống hồ, bà còn dạy cho tôi nhiều điều khác nữa.
Có lần, bà mời tôi hút thuốc, bà nói thuốc ngon lắm. Thuở đó, chuyện hút thuốc, tôi còn là tay mơ, cứ tưởng thuốc ngon là thuốc nhẹ lâng lâng, như kiểu thuốc vàng sợi ở Lạng Sơn. Nào dè, thuốc của bà, mới rít vô một hơi, tôi đã muốn bể phổi, ho sặc ho sụa. Té ra, thuốc ngon là thuốc nặng, có biết như vậy rồi, mới hiểu được tường tận ý nghĩa câu “thuốc ngon nửa điếu”. Trời ơi, thuốc ngon cỡ như thuốc của bà Ba Thời, mà chỉ còn có phân nửa, quện nhựa của nửa điếu thuốc trước, thì… ngon kể gì. Tôi có cơ duyên may mắn gặp được bà Ba Thời và có gặp được bà rồi mới biết mình còn ngu nhiều lắm. Có nhiều câu thành ngữ, nghe người ta nói, hay đọc trong báo chí, sách vở, riết rồi quen, tôi cũng nói y theo như vậy, không cần biết trúng trật, không cần nghiệm coi nó có hợp lý hay không. Thí dụ như câu “một kiểng hai quê.” Câu nầy, người ta vẫn thường nói và tôi vẫn thường nói theo, để chỉ người đờn ông có hai vợ. Một dịp tình cờ, tôi nghe chị Mũ Đỏ Võ Thị Vui nói khác. Chị Vui là một phụ nữ, có một thời ngang dọc, là một sĩ quan nổi tiếng trong binh chủng Nhảy Dù. Chánh chị làm quan, chứ không phải làm quan tắt. Chị bày tỏ ý kiến một cách nhẹ nhàng, không cần thuyết phục người nghe: - Phải nói là “một kiểng hai huê mới đúng.” - Huê là hoa. Vì kiêng bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, nên chữ “hoa” phải đọc là “huê”, ở miền Trung, có nơi còn đọc là “ba”, miền Nam thì nói là “bông.” Bữa chị Vui nói đó, có mặt cả nhà thơ Lê Giang Trần. Nhà thơ nầy có nghĩ gì không, tôi không biết, riêng tôi, nghe xong, tôi giật mình. Té ra, bấy lâu nay, mình quen miệng nói theo người ta, trật lất mà mình không biết. Một chậu kiểng mà trồng hai loại hoa khác nhau, để chỉ người đờn ông hai vợ là phải quá rồi. Từ cái câu “một kiểng hai huê,” mới hợp với câu ca dao: “Một bồn một kiểng tươi xanh. Một chàng, hai thiếp, khổ anh nhiều bề”. Tại sao mà khổ dữ vậy? Tại vì: “Một chàng hai thiếp, anh xử hiếp tôi rồi Tối, buồng ai nấy ngủ; gạo, hai nồi nấu riêng”. Đó, như đã nói, có nhiều câu nhiều chữ, nói riết thành quen, rồi hiểu cũng theo một thói quen, không cần tìm tới tận gốc cái nghĩa đích thực của nó.
Hồi nãy, tôi nói tới chữ “ổi tàu,” bây giờ, xin nói tới “thịt kho tàu.” Hồi trước, chỉ có người miền Nam mới biết món thịt kho tàu, ăn với dưa giá trong mấy ngày tết. Bây giờ, bất kỳ Bắc, Trung, Nam không mấy người là không biết món thịt kho tàu. Kho làm sao, không ướp hành ướp tiêu gì hết, mà vẫn thơm tho? Kho làm sao mà miếng thịt mềm rục nhưng không nát? Kho làm sao mà không bỏ nước màu, nước thịt vẫn tươi màu nâu đỏ, trong khe? Mấy điều nầy, xin hỏi mấy bà nội trợ lành nghề. Tôi chỉ nói về điều tôi học được về “thịt kho tàu”. Ăn món thịt kho nầy từ hồi mới mọc ba cái răng cửa, tới hơn nửa đời người, tôi vẫn cứ đinh ninh món nầy là món của người Tàu. Thịt kho tàu là món thịt kho của người Tàu, chắc nhiều người cũng nghĩ như tôi vậy. Nghĩ riết như vậy rồi quen, không hề thắc mắc rằng trong các tiệm ăn do người Tàu làm chủ và đứng làm đầu bếp chánh, kể cả các tiệm ăn bình dân, không hề có món thịt kho tàu, ghi trong thực đơn. Mà thiệt, gẫm cho cùng, bên Tàu, xứ lạnh, làm gì có cây dừa, để có nước dừa tươi đổ vô nồi thịt kho. Mãi cho tới khi đọc một bài của ông Bình Nguyên Lộc, viết cho các em thiếu nhi, mới hiểu rằng chữ “tàu” ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông cái Tàu thượng, sông cái Tàu hạ, là hai con sông nước lợ. Té ra, kho tàu là kho lạt chớ không phải là kho theo kiểu người Tàu.
Cũng nói quen miệng mà không cần tìm hiểu là “cây lẻ bạn”. Lẻ bạn là loại cây giống như cây thơm, cây dứa, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn, cao độ hai tấc, hai tấc rưỡi là cùng. Tàu lá lẻ bạn màu tím than, bông mọc ra ở dưới gốc, giống như hai cái vỏ sò khép lại. Khi bông nở, hai mảnh hé ra, nhụy là những hột trắng tươi. Ở miền Nam, người ta thường trồng cây lẻ bạn ở những gò mả, ngụ ý một sự thương tiếc ngậm ngùi, người sống cũng lẻ bạn, người chết cũng lẻ bạn. Đó là tất cả những gì mà tôi biết, tôi hiểu về cây lẻ bạn. Tôi chưa một lần trồng cây lẻ bạn bên mộ của ai, nhưng tôi thích cái ý nghĩa nầy. Nào dè, tôi biết, tôi hiểu trật lất. Đọc cụ Vương Hồng Sển mới biết cây nầy tên nó không phải là cây “lẻ bạn”, mà là “lão bạng”, lấy từ câu “lão bạng sanh châu” (con trai, con sò già, sanh ra ngọc). Sở dĩ, cây gọi là vậy vì bông của nó giống như hai vỏ sò úp lại và khi nở bàng nhụy trắng tinh bên trong như những hột minh châu. Cụ Vương còn cho biết ở vùng Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, cây lão bạng mọc làng khang. Biết thêm một điều gì, đỡ ngu thêm một chút. Nhưng, trường hợp của cây lão bạng nầy, tôi nghĩ, thà là không biết còn hơn. Bấy lâu, tôi vẫn thấy bụi cây màu tím đó, mọc bên cạnh một ngôi mộ, là một hình ảnh nên thơ, nói lên một ý nghĩa thương tiếc ngậm ngùi. “Lẻ bạn” bỗng trở thành “lão bạng”, hình ảnh nên thơ, chan chứa tình cảm đó, bỗng dưng biến mất…
Tôi, bây giờ, “ai đem tiêu muối vãi lên đầu” rồi, mà muối nhiều hơn tiêu, ngồi mà tiếc lại thời gian đã qua, bỏ lỡ nhiều dịp may để mà học. Nhưng, tiếc là tiếc vậy thôi chớ làm sao níu kéo lại được thời gian. Thế giới càng ngày càng văn minh tấn tới. Khoa học kỹ thuật tiến triển một cách mau lẹ tới mức không theo kịp, tôi vẫn nuôi tham vọng muốn học nhiều, nhưng ngày giờ có chừng, sức người có hạn, học làm sao cho hết. Bà Ba Thời đã về với cát bụi, các ông Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sển cũng không còn, nhưng các bạn trẻ tấn tới, cái kiến thức về khoa học kỹ thuật của họ, học biết bao giờ rồi? Đức Khổng Tử dạy rằng: “Vi nhơn nan” (làm người thì khó). Nội cái chuyện học để sống làm sao cho ra con người, xứng đáng là một con người, cũng đã hụt hơi.
Tôi lớn lên trong phong trào Hướng Đạo. Luật phong trào dạy “trong sạch từ tư tưởng, lời nói, tới việc làm”. Cho tới ngày giờ nầy, điều luật vẫn làm cho tôi lao đao, chỉ biết giữ câu châm ngôn “gắng sức” của Sói con, để cho ngựa đừng trở chứng đạp rào. Đức Phật là người đi mà không đến. Cái học của tôi cũng vậy, học thầy học bạn, học sách học báo, học đường học chợ, chỉ đế là học. “Dủ học dủ ngu”. Ngày xưa, thầy Tử Lộ hỏi đức Khổng Tử khi nào thì chấm dứt sự học. Vị Vạn Thế Sư Biểu đã trả lời rằng: - Khi huyệt đã đào nhẵn nhụi rồi, đất đã đắp chắc chắn rồi, người đi đưa đã quay chưn lui gót rồi, lúc đó mới hết học. Và, cái học khó nhứt vẫn là học để sống làm sao cho ra con người…
........../.