Từ độc tài sang dân chủ: Mô hình chuyển đổi chế độ nào thích hợp nhất cho Việt Nam?



Từ độc tài sang dân chủ: Mô hình chuyển đổi chế độ nào thích hợp nhất cho Việt Nam?


 Vũ Đức Khanh


Việc phân tích sự thành công của Hàn Quốc và Đài Loan trong quá trình chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ, đồng thời xem xét khả năng áp dụng cho Việt Nam, đòi hỏi sự hiểu biết về cả yếu tố nội tại lẫn áp lực từ bên ngoài.
Dưới đây là phân tích cụ thể về hai quốc gia này, cùng với việc đánh giá tính khả thi của quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam.

Hy vọng bài phân tích này sẽ đặc biệt giúp ông Tô Lâm, cũng như các thế lực cầm quyền ở Việt Nam và các nhà vận động dân chủ cho Việt Nam có thêm dữ liệu, góc nhìn đa chiều để hướng tới một "giải pháp chính trị khả thi" cho Việt Nam.


Vào ngày 18/5/1980, người dân Gwangju đổ ra trung tâm thành phố phản đối chính quyền độc tài.



1. Hàn Quốc: Từ độc tài quân sự đến nền dân chủ thành công
1.1. Trước khi dân chủ hóa
1.1.1. Giai đoạn độc tài quân sự (1961-1987):
Sau cuộc đảo chính của tướng Park Chung-hee năm 1961, Hàn Quốc bị cai trị bởi các chính quyền quân sự độc tài. Trong thời gian này, kinh tế Hàn Quốc phát triển mạnh nhờ các chính sách công nghiệp hóa và xuất khẩu. Tuy nhiên, tự do chính trị bị hạn chế nghiêm trọng, và các phong trào đòi dân chủ thường xuyên bị đàn áp.
1.1.2. Sự kiện Gwangju (1980):
Vụ đàn áp bạo lực của chính quyền với các cuộc biểu tình đòi dân chủ ở Gwangju đã trở thành một bước ngoặt quan trọng. Hàng trăm người biểu tình bị giết hại, làm dấy lên sự phản đối mạnh mẽ trong dân chúng và gây áp lực lớn lên chính quyền.
1.2. Chuyển đổi thành công
1.2.1. Phong trào dân chủ (1987):
Dưới áp lực từ các phong trào sinh viên và tầng lớp trung lưu, chính quyền độc tài buộc phải nhượng bộ. Cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên được tổ chức vào năm 1987, đánh dấu bước đầu của quá trình dân chủ hóa.
1.2.2. Điều kiện cần và đủ:
1.2.2.a. Sự phát triển của tầng lớp trung lưu:
Kinh tế phát triển đã tạo ra một tầng lớp trung lưu có yêu cầu cao về quyền lợi chính trị và xã hội.
1.2.2.b. Sự yếu kém của chính quyền độc tài:
Áp lực quốc tế, cùng với sự bất mãn trong nước, đã khiến chính quyền mất đi tính chính danh.
1.2.2.c. Sự can thiệp của Mỹ:
Là một đồng minh thân cận, Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy cải cách dân chủ ở Hàn Quốc.

Tưởng Kinh Quốc (trái) cùng cha là Tưởng Giới Thạch năm 1948.


2. Đài Loan: Từ độc tài Quốc dân Đảng đến nền dân chủ toàn diện
2.1. Trước khi dân chủ hóa
2.1.1. Chế độ độc tài Quốc dân Đảng (1949-1987):
Sau khi Quốc dân Đảng (KMT) thua trong cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc, họ rút về Đài Loan và thiết lập chế độ độc tài. Trong nhiều thập kỷ, Đài Loan bị cai trị bởi chính quyền độc tài với thiết quân luật kéo dài từ năm 1949 đến 1987.
2.1.2. Áp lực từ các phong trào dân chủ:
Các phong trào đòi dân chủ dần hình thành trong những năm 1970-1980, với sự xuất hiện của các nhóm chính trị mới và các cuộc biểu tình đòi bãi bỏ thiết quân luật.
2.2. Chuyển đổi thành công
2.2.1. Chính sách cải cách của Tưởng Kinh Quốc (Chiang Ching-kuo):
Dưới áp lực trong và ngoài nước, lãnh đạo Tưởng Kinh Quốc, con trai của Tưởng Giới Thạch, bắt đầu quá trình cải cách chính trị từ thập niên 1980. Ông chấm dứt chế độ thiết quân luật vào năm 1987 và mở đường cho các cuộc bầu cử dân chủ vào những năm 1990.
2.2.2. Điều kiện cần và đủ:
2.2.2.a. Sự cải cách từ bên trong chính quyền:
Tưởng Kinh Quốc đã nhận ra sự cần thiết của cải cách để bảo đảm sự ổn định và phát triển của Đài Loan.
2.2.2.b. Áp lực từ xã hội dân sự:
Phong trào dân chủ mạnh mẽ, cùng với áp lực từ quốc tế, đã buộc chính quyền Quốc dân Đảng phải thay đổi.
2.2.2.c. Quan hệ với Mỹ:
Cũng như Hàn Quốc, Đài Loan có quan hệ mật thiết với Mỹ, và sự hỗ trợ của Mỹ là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình dân chủ hóa.



3. Liệu Việt Nam có thể dân chủ hóa?
3.1. Thách thức nội tại
3.1.1. Chế độ toàn trị và bộ máy an ninh chặt chẽ:
Việt Nam hiện đang bị cai trị bởi Đảng Cộng sản, với sự kiểm soát nghiêm ngặt của bộ máy công an, tình báo, và an ninh. Bộ máy này đã ngăn chặn hiệu quả các phong trào đòi dân chủ và kiểm duyệt các tiếng nói đối lập. Đây là thách thức lớn nhất đối với quá trình dân chủ hóa.
3.1.2. Tính hợp pháp của Đảng Cộng sản:
Dù có nhiều chỉ trích, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ được tính hợp pháp trong mắt nhiều người dân, nhờ vào những thành tựu kinh tế kể từ Đổi Mới. Điều này khác biệt với tình hình ở Hàn Quốc và Đài Loan, nơi chính quyền độc tài bị mất lòng dân trước khi dân chủ hóa.
3.1.3. Sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc:
Việt Nam, dù có những căng thẳng chính trị với Trung Quốc, vẫn phụ thuộc nhiều vào quốc gia láng giềng này về kinh tế. Trung Quốc có thể không muốn thấy một Việt Nam dân chủ và có thể gây sức ép để ngăn chặn bất kỳ sự thay đổi nào.
3.1.4. Áp lực quốc tế và khu vực:
Nếu Việt Nam muốn tiếp tục hội nhập quốc tế, họ sẽ phải đối mặt với áp lực từ các quốc gia dân chủ, đặc biệt là Mỹ và EU, trong việc cải cách chính trị. Các hiệp định thương mại như CPTPP, bao gồm những điều khoản về lao động và nhân quyền, tạo ra một nền tảng cho các cải cách dân chủ.
3.1.5. Tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh:
Giống như Hàn Quốc và Đài Loan, Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển của tầng lớp trung lưu, những người đòi hỏi nhiều hơn về quyền lợi chính trị và xã hội. Tầng lớp này có thể trở thành lực lượng chính, yêu cầu cải cách trong tương lai.
3.1.6. Sự yếu kém của Đảng Cộng sản:
Nếu Đảng Cộng sản mất đi tính chính danh do các vấn đề tham nhũng, quản lý yếu kém hoặc không đáp ứng được nguyện vọng của người dân, họ có thể buộc phải nhượng bộ trước các yêu cầu dân chủ hóa.
3.2. Yếu tố quyết định thành công
3.2.1. Áp lực từ bên trong:
Quá trình dân chủ hóa thành công sẽ cần phải có áp lực từ nội bộ, bao gồm cả tầng lớp trung lưu, trí thức, và các nhóm xã hội dân sự. Cải cách từ bên trong Đảng, như trường hợp Đài Loan, có thể là một con đường khả thi.
3.2 2. Sự hỗ trợ quốc tế:
Mỹ và các nước phương Tây có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức ép cải cách. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi chiến lược trong chính sách ngoại giao của Việt Nam, chuyển từ phụ thuộc vào Trung Quốc sang hợp tác với các nước dân chủ.
3.2.3. Tính sẵn sàng của chính quyền:
Cải cách sẽ chỉ thành công nếu lãnh đạo Việt Nam nhận thấy rằng việc tiếp tục duy trì chế độ toàn trị sẽ gây hại nhiều hơn là lợi. Tình trạng tham nhũng, bất mãn xã hội và áp lực quốc tế có thể làm cho điều này trở nên rõ ràng.


4. Kết luận
Việt Nam có tiềm năng để dân chủ hóa, nhưng quá trình này sẽ đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng từ bộ máy an ninh và sự kiểm soát của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, nếu có sự kết hợp giữa áp lực từ nội bộ, tầng lớp trung lưu phát triển, cùng với sự hỗ trợ quốc tế, Việt Nam có thể theo gương Hàn Quốc và Đài Loan, từng bước chuyển đổi sang một nền dân chủ, trong khi vẫn duy trì sự ổn định kinh tế và xã hội.

Hy vọng bài viết này sẽ giúp quý độc giả, đặc biệt là những thành phần nêu trên, hiểu rõ hơn về những điều kiện cần thiết để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam. ............../.

ĐƯỜNG SẮT CAO TỐC : VI PHẠM TIÊN ĐỀ THÌ ĐỪNG!


ĐƯỜNG SẮT CAO TỐC : VI PHẠM TIÊN ĐỀ THÌ ĐỪNG!


****


1.
Đứng trong rừng, khó xác định đường ra khỏi rừng. Đứng trên núi cao nhìn hết toàn rừng lại xác định hướng đi dễ. Nhiều vấn đề phức tạp, nhìn thấy được các tiên đề thì sẽ trở thành đơn giản. Sa vào tính toán tiểu tiết, không tìm ra lối thoát.
Ở mặt khác, chẳng hạn như trong chiến tranh, quyết định tiến hành một chiến dịch hay không tiến hành, thường dựa trên các yếu tố mang tính tiên đề. Còn tiến hành chiến dịch như thế nào lại thuộc về giai đoạn khác, thuộc bộ tổng tham mưu, nơi thảo ra những tính toán chi tiết.



Quyết định về xây dựng Đường sắt cao tốc (ĐSCT) hay Đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) cho tuyến đường Hà Nội – TP HCM là một quyết định không phức tạp khi biết dựa vào các nhân tố mang tính tiên đề.
2.
Trong suốt hơn 15 năm qua, đã có nhiều bài viết, nhiều ý kiến, nhiều tính toán chỉ ra sự vi phạm tiên đề trong đề xuất xây dựng ĐSCT tuyến Hà Nội – TP HCM, tốc độ 320-350 km/h, chỉ chở khách mà không chở hàng. Bất chấp các vi phạm tiên đề, dường như có một “dòng chảy ngầm” xuyên suốt ở Bộ GTVT và ở cấp cao hơn, không ngừng ủng hộ ĐSCT chở khách mà không chở hàng, đồng thời kiên trì loại bỏ ĐSTĐC 200 km/h chở khách và 120 km/h chở hàng mà Bộ KH&ĐT và Hội đồng thẩm định Nhà nước đã đề xuất [1].
Lập luận rằng ĐSCT tốc độ 320 km/h (mà vận hành thực tế chỉ ở khoảng 250-260 km/h) sẽ cho người dân ăn sáng ở Hà Nội, ăn tối ở TPHCM, cạnh tranh được với máy bay, đi tắt đón đầu, không bị lạc hậu, ngang bằng với các nước tiên tiến. Còn vận tải hàng hoá thì dựa vào lý lẽ sẽ nâng cấp tuyến đường hiện hành (mà trên thực tế, không biết đến bao giờ mới có tài chính để thực hiện).
Ai đó đã cố tình quên đi:
- Vận tải hàng không vận tải đường sắt bổ sung hộ trợ cho nhau, chứ không phải cạnh tranh với nhau.
Xây dựng ĐSCT tốc độ 320 km/h thì 10 người chỉ có 1 người đủ khả năng tài chính để đi, 9 người ngồi nhà; còn xây dựng ĐSTĐC thì cả 10 người được đi. Hãy tính lưu lượng di chuyển giữa 10 triệu người với 100 triệu người đi lại để thấy được sự khác biệt của nền kinh tế.
- ĐSTĐC 200 km/h chở khách, 120km/h chở hàng, giúp cho 70 triệu người dân nông thôn được đi lại, nông sản không bị thối rữa, vận chuyển hàng hoá nhanh chóng, chi phí thấp, giúp cho cạnh tranh quốc tế.
- ĐSCT tốc độ 320 km/h để lại một gánh nợ khổng lồ khoảng 70 tỷ USD, chưa biết lúc nào có thể vận hành toàn bộ, chưa biết lúc nào có thể cắt lỗ, không giúp gì được cho vận tải hàng hoá cũng như vận tải quốc phòng.
- Xây dựng ĐSTĐC 200 km/h chở khách, 120km/h chở hàng thì 10 năm sau đưa vào vận hành được, không bị lỗ.
Xin lưu ý những người hay đề cao “ đi tắt đón đầu”, “tiến thẳng lên hiện đại”:
- ĐSCT tốc độ 320 km/h không thể cho Việt Nam bắt kịp được các nước tiên tiến. Khi ĐSCT tốc độ 320 km/h nếu may mắn hoàn thành được vào năm 2050 ở Việt Nam, thì thế giới đã có ĐSCT tốc độ 500 - 600 km/h. Việt Nam, một nước không sở hữu nền công nghiệp hiện đại, không sở hữu công nghệ nguồn thì không bao giờ đi đầu, ngang bằng được với các nước tiên tiến. Hôm nay bạn có Iphone 14 đời mới nhất, thì cùng lúc có người khác đã sở hữu Iphone đời mới tiếp theo rồi. Chừng nào còn là quốc gia tiêu thụ, thì chừng đó luôn là người tiêu dùng hàng thế hệ, may ra là , “áp cuối”.
- Ảo tưởng tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN là một thực tế đau xót bắt khoảng một nửa nhân loại phải trả giá gần suốt một thế kỷ, dẫn đến Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, buộc Trung Quốc (TQ) phải mở cửa từ năm 1978 với khẩu hiệu “mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột”, với sự từ bỏ trá hình “CNXH mang màu sắc TQ”; Còn Việt Nam thì phải tiến hành chính sách “Đổi mới” từ tháng 12/ 1986. Hãy quên đi sự hô hào bắt kịp các nước tiên tiến trên thế giới trong xây dựng ĐSCT. Một tốc độ chạy tàu 150- 200 km/h, để đi từ Hà Nội vào Vinh chỉ 2 tiếng đã là một ước mơ thế kỷ.





Để cảnh tỉnh xin nhắc lại vài con số :
Theo thiết kế, tuyến đường sắt TPHCM – Cần Thơ dài 174,41 km, tốc độ chở khách 190 km/h, tốc độ chở hàng 120 km/h, có 15 nhà ga, 11 trạm bảo dưỡng. Tổng mức đầu tư 9, 07 tỷ USD (213 948 tỷ đồng). Bình quân 52 triệu USD/km [3].
Trong khi đó, tuyến đường sắt Lào – Trung Quốc (TQ) đoạn Vientiene- Botan dài 422 km, tốc độ chở khách 160 km/h, tốc độ chở hàng 120 km/h, 10 ga hàng hoá, 10 ga hành khách, 75 đường hầm, 77 cây cầu. Tổng mức đầu tư 5,9 tỷ USD. Bình quân 14 triệu USD/km cho tuyến đơn và 28 triệu USD/km cho tuyến đôi [4]
Như vậy, một cách tương đối, giá thành 1 km tuyến đường sắt TPHCM – Cần Thơ đắt gấp 1,85 lần tuyến đường sắt Lào – Trung Quốc (cho tuyến đôi). Nếu lưu ý rằng, vốn chung 2 nước chiếm 40%, vốn vay Trung Quốc 60%, Trung Quốc là người xây dựng, thì có thể đồ rằng, giá trị xây dựng thực của nhà thầu không quá 75%, tức là khoảng 10,5 triệu USD/km cho tuyến đơn, và 21 triệu USD cho tuyến đôi. Nếu tính theo giá thành này, tuyến ĐSTĐC Hà Nội – TP HCM dài 1 508,6 km có giá thành khoảng 31 tỷ 680 triệu USD gần với con số dự báo ban đầu của Bộ KH&ĐT. Còn nếu là các tập đoàn tư nhân xây dựng, thì chi phí nằm trong khoảng 20- 25 tỷ USD, với thời gian xây dựng chừng 10 năm là có thể đưa vào khai thác.



Hội đồng thẩm định nhà nước đã đề xuất phương án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, tốc độ chở khách 200 km/h, tốc độ chở hàng 120 km/h, mà không chấp thuận phương án chỉ chở khách 320 km/h. Hội động thẩm định Nhà nước cũng đã có công khi điều chỉnh rút ngắn tuyến đường xuống 1.508,6km thay vì 1.559km., và giảm giá thành đầu tư xuống 61,02 tỷ USD, ít hơn 15,34 tỷ USD so với 76,39 tỷ USD theo đề xuất của Bộ GTVT [1].
3.
TQ không phải là quốc gia có công nghệ tiên tiến bậc nhất, nhưng xây dựng ĐSCT thì TQ là quốc gia đứng số 1, làm nhanh nhất, rẻ nhất. Nhưng đó là người TQ làm cho người TQ. Còn người TQ làm ĐSCT, ĐSTĐC cho nước ngoài, muốn nhanh phải có cổ phần áp đảo của TQ, do TQ khai thác vận hành. Tuy nhiên lúc đó giá thành được đẩy lên, ít nhất là bù đủ chi phí của TQ.
Còn làm cho nước ngoài, không có cổ phần của TQ thì giá thành tăng gấp 2,3,4,5 lần. Thời gian thi công kéo dài. Như trường hợp tàu điện trên cao Cát Linh – Hà Đông.
Nhưng nỗi lo chính khi TQ xây đựng ĐSCT hay ĐSTĐC mà không có cổ phần áp đảo của TQ nằm ở điểm khác, chứ không phải chỉ ở giá cao, thiết bị không an toàn. Các nước Âu Mỹ lo về công nghệ gián điệp của TQ. Vụ nổ máy nhắn tin làm gần 3000 người bị thương và thiệt mạng ở Lebanon ngày 17/9/2024 [2] là một chứng cớ sởn gai ốc. Các nước sở hữu công nghệ, có khả năng truy xét thiết bị gián điệp như Mỹ mà còn phải tránh xa thiết bị TQ, thì đừng nói đến Việt Nam - “i tờ” về công nghệ cao. Không có khả năng kiểm soát, tiên đề là “tránh xa”.
4.
Quyết định xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội – Sài Gòn là một quyết định ảnh hưởng to lớn đến các đời con cháu mai sau. Hoặc giúp cho con cháu giàu có lên, hoặc đưa đến cho cháu con những khoản lỗ khổng lồ. Lúc đó, dẫu không muốn lưu danh, thì hậu thế cũng buộc phải nhắc đến.
Bởi thế, các UVTƯ là những người biểu quyết quyết định phương án xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội – TP HCM cần rất thận trọng. Chọn ĐSTĐC 200 km/h chở khách và 120 km/h chở hàng hay chọn ĐSCT 320 km/h chỉ chở khách phụ thuộc vào lợi ích của ai? Số đông hay số ít? . Đó không thể là một biểu quyết vì ai đó đã quyết, hay vì đối ngoại, càng không thể sợ cản bước tiến cá nhân. Cá nhân không thể đạp lên vai số đông cần lao để thăng tiến.
5.
Chu Văn An dâng sớ thất trảm, chỉ lui về ở ẩn ở Chí Linh mà không nguy hại đến tính mệnh. Vương Luỹ treo mình trước cổng thành can ngăn Lưu Chương, tự mình cắt dây rơi xuống thiệt mạng chứ không do Lưu Chương giết. Nhưng Điền Phong can Viên Thiệu bị giam vào ngục, bị Thiệu bức tự tử. Còn Tỷ Can ngăn Trụ Vương thì bị moi tim. Đó là thời xa xưa.
Trong dự án xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội – TP HCM, đã từng có một số tờ báo lớn đăng nhiều bài viết phản biện về ĐSCT và ĐSTĐC.
Đặc biệt Bộ KH&ĐT đã đề xuất và kiên trì ủng hộ cho phương án 200 km/h chở khách, 120km/h chở hàng. Hy vọng Bộ KH&ĐT từ góc nhìn của cần lao số đông mà kiên trì phản biện đến cùng.
Hội đồng thẩm định Nhà nước đã thể hiện chính kiến của mình, bảo vệ và góp ý cho phương án vừa chở khách vừa chở hàng, càng không thể vì lý do gì mà rời xa bản chất khoa học.
Còn nữa là Bộ NN &PT NN, đừng quên lợi ích của 70 triệu dân vùng nông thôn miền núi nghèo khó. Họ cần được di chuyển. Họ cần được bán hàng. Họ là đối tượng lớn cần được để tâm nếu muốn Việt Nam sớm vượt qua mức sống trung bình của thế giới.

................../.

VĂN HOÁ CÓ BẢO TỒN ĐƯỢC HAY KHÔNG?


PHẢN BIỆN THÙY MINH VIETCETARA & LÊ CÁT TRỌNG LÝ - VĂN HOÁ CÓ BẢO TỒN ĐƯỢC HAY KHÔNG?

 Nguyễn Ngọc Long



Gần đây, trên mạng đang viral trở lại một đoạn phỏng vấn của Thuỳ Minh Vietcetara (Minh) với Lê Cát Trọng Lý (Lý) về bảo tồn văn hoá. Trong đó, trích nguyên văn theo đoạn clip mà Lý cho rằng bị cắt ghép, thì nội dung như sau:

Lý: Em nghĩ văn hoá là không bảo tồn được, vì sao, vì không có sức mạnh nào chống được với thời gian. Văn hoá chỉ có thể phát triển thôi, theo kiểu nó phải làm người ta thích thú ấy. Chứ mình không thể bảo tồn một cái xác ướp được. Nó liên quan đến đời sống mình đâu mà mình bảo tồn? Em xin lỗi nếu có đụng chạm...

Minh: Không, không. Cái này cũng là một cái ý cũng rất là hay. Đúng. Tại sao mình phải…

Lý: Tại vì, chắc gì cái mình đang bảo tồn là nguyên gốc. Vì nó đã phát triển rồi mà. Ví dụ khi bà mình hát cho mẹ mình, mẹ mình nhớ được phần nào đó thôi. Mẹ mình hát cho mình, mình cũng chỉ nhớ được tới đó thôi. Về cơ bản là mình bảo tồn bằng cách nào bây giờ trước một cái sự thay đổi? Ý em là mình cứ tưởng tượng là mình bảo tồn nhưng thực ra mình đang giữ một cái gì đó mình đang không thực sự hiểu, không thực sự thích…

[...hết trích]
///////////////////
Trong đó:
(1) Câu so sánh có đề cập chữ “xác ướp” của Lê Cát Trọng Lý bị chỉ trích mạnh mẽ nhất vì cộng đồng mạng cho rằng ca sỹ này đang ám chỉ và xúc phạm Bác Hồ.
(2) Lê Cát Trọng Lý bị cho là chủ ý nói chứ không lỡ miệng vì câu “xin lỗi nếu có đụng chạm” liền sau đó
(3) Thuỳ Minh bị chỉ trích gián tiếp vì cho rằng “cái này cũng là một cái ý rất là hay”
.........

Tuy nhiên, ở bài viết này, cô giáo sẽ bỏ qua Lê Cát Trọng Lý và chủ ý phản biện Thuỳ Minh vì những lý do sau:

(1) Bối cảnh bài phỏng vấn đề cập nhiều tới việc Lê Cát Trọng Lý đang có những dự án “làm sống lại âm nhạc dân tộc” theo hướng âm nhạc của các tộc người, chủ yếu là thiểu số. Tức là, LCTL đang làm một việc tốt.

(2) Mới gần đây, khi bị chỉ trích, Fanpage LCTL đã lên bài “Nói lại cho rõ ý”. Và khẳng định rằng LCTL không định phát biểu gì xấu xí hay lệch lạc. Nếu cách nói của cô ấy có gì khiến người khác hiểu lầm thì cô ấy xin lỗi. Tất nhiên, LCTL cũng không đề cập chữ “xác ướp” cô ấy ám chỉ ai, hay điều gì? Có người comment phản biện, ngay cả đề cập đến xác ướp Ai Cập cũng là thiếu văn minh thì Fanpage LCTL đã không hồi đáp. Tuy nhiên, về tổng thể, cô giáo đánh giá nếu có gì không hay cũng là “lỡ lời” chứ không phải chủ ý xấu gì.

(3) Podcast lên sóng được thì phải qua khâu kiểm duyệt. Và hiển nhiên, ngay từ nội dung “góp giọng” khẳng định “cái này cũng là một cái ý rất là hay” của Thuỳ Minh thì cô hiểu rằng quan điểm này cũng là quan điểm của Thuỳ Minh, hoặc Thuỳ Minh cho rằng nó đúng.

Vậy nên, cô sẽ chỉ phản biện “quan điểm của Thuỳ Minh” và tập trung trực diện vào việc Văn hoá của bảo tồn được hay không, không đề cập tới các ồn ào xung quanh nữa.

Tình cờ, có phóng viên mới gọi điện hỏi cô về tiết mục Trống Cơm của NSND Tự Long, Cường Seven & Soobin Hoàng Sơn trong Anh trai vượt ngàn chông gai. Câu hỏi mà phóng viên muốn làm rõ là Tại sao tiết mục này lại được viral?

Câu trả lời của cô gồm 4 ý:
1) Nó hay. Tất nhiên, không phải cứ cái gì hay thì sẽ viral. Thậm chí, sản phẩm dở tệ có khi còn viral dữ dội hơn cả sản phẩm hay. Nhưng Trống Cơm là một tiếc mục hay. Hay có thực chứng.
2) Nó được “phát tán” bởi một chương trình cũng hay không kém. Nguồn phát trong viral cũng tương đối quan trọng.
3) Nó được sự góp mặt của 3 thay vì 1 ngôi sao. Và 3 ngôi sao có ảnh hưởng với 3 nhóm người xem công chúng khác nhau, nên mức độ quan tâm cũng được x3 là tối thiểu
4) Yếu tố này, với cô là quan trọng nhất. Đó là nó được “gặp thời”. Tức là, cô cho rằng, nếu tiết mục này ra mắt sớm vài năm trước sẽ không thành công như vậy.

Trống cơm là một tiết mục có liên quan đến văn hoá truyền thống rất hay. Nhưng nó không phải trường hợp đầu tiên thành công như vậy.

Chắc các em còn nhớ Hoài Lâm, một nghệ sỹ tài năng thực sự. Bạn này chỉ sau một đêm chung kết Gương mặt thân quen đã làm sống lại ca khúc Xẩm Thập Ân và làm cho bao nhiêu người trẻ ồ à lần đầu biết tới nghệ nhân xẩm Hà Thị Cầu.

Sau đó, phải kể tới Hoàng Thuỳ Linh với Để Mị Nói Cho Mà Nghe, rồi Tứ Phủ… (cô giáo không theo dõi bạn này quá nhiều nên không nhớ hết các bài). NSND Bạch Tuyết cùng ca sỹ trẻ Hoàng Dũng làm sống lại nghệ thuật cải lương khi kết hợp với RAP.

Ca sỹ Hoà Minzy với MV Thị Mầu. MV này đặc biệt ở chỗ không chỉ chinh phục khán giả ở phần nghe mà còn cả ở phần nhìn với gần trăm triệu lượt biến hình áo mớ 3 mớ 7 của các bạn trẻ đu trend trên tóp tóp.

Lội ngược dòng xa hơn nữa, thì lớp nghệ sỹ đời đầu phải kể tới Ngọc Khuê, khi ca sỹ này kết hợp với nhạc sỹ Lê Minh Sơn, ra hẳn một album khuấy đảo dòng nhạc dân gian đương đại gồm những bài hát như Chuồn chuồn ớt, Bên bờ ao nhà mình… Mà theo cô nhớ, đó là lần đầu tiên tiếng rao “ai chổi đót đây” đầy cảm xúc, đầy hồn cốt của người “nhà quê” được đưa vào âm nhạc.

...............

Vậy câu hỏi đặt ra là, âm nhạc dân gian - một cấu phần của Văn hoá dân tộc đã chết chưa?

Hiển nhiên, các nghệ sỹ tài năng kể trên đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng.
Nó chưa chết.

Không chết và không thể chết.

Cái chính là, chúng ta cần có cách bảo tồn riêng để nó hoà được vào hơi thở của thời đại, và hướng tới phát triển thật là bền vững. Tức là, phù hợp với thời cuộc nhưng vẫn giữ được tính truyền thống và có sự truyền thừa.

Nhưng âm nhạc không phải là tất cả khi nói về văn hoá. Hãy nhìn rộng ra một chút.

Chúng ta có quyền tự hào khi các bạn trẻ đã “đu trend” Việt phục. Họ cất công nghiên cứu, sưu tầm và đưa trang phục cổ của người Việt vào đời sống, theo một cách rất… GenZ.

Đó không phải là việc vận động người người nhà nhà mặc khăn đóng áo dài đi làm nơi công sở. Mà đó là những bộ trang phục mặc để checkin nơi bảo tàng, thành cổ, đại nội Huế, Hoàng thành Thăng Long hay những nơi phù hợp. Việt phục cũng được sử dụng trong phim ảnh, sàn diễn thời trang và đặc biệt là lễ cưới.

Tiếp đến, là ẩm thực. Hàng loạt account, tài khoản chuyên về ẩm thực đang ngày đêm góp phần đưa những món ăn mang đậm nét văn hoá của các dân tộc khác nhau, các vùng đất khác nhau lên Internet và ra thế giới. Thắng cố, mèn mén của người H'Mông, Cơm lam của người Tày, Nùng, Pà pỉnh tộp của người Thái, Canh chua cá thát lát của người Khơ Mú, Lẩu cá suối người Mường, Xôi ngũ sắc của người Chăm, Rượu cần của người Gia Rai, Ê Đê… Gần gũi và quen thuộc hơn thì có Thịt trâu gác bếp, Măng chua, Khoai lang sấy, Hồng treo gió, Lẩu mắm cá linh… Vốn là những món ăn vùng miền bỗng trở thành “quốc dân” ai ai cũng nghe, cũng biết.

Không phải là cuối cùng, nhưng khía cạnh cuối cùng trong khuôn khổ bài viết của cô, đó là lịch sử.

Có thể khẳng định ngay rằng, chưa bao giờ các câu chuyện lịch sử lại trở nên gần gũi và sinh động như hiện tại.

MV Không thể cùng nhau suốt kiếp của Hòa Minzy, Sách ảnh Dệt nên triều đại, Lam Mộc Kỷ thuộc dự án Việt sử kiêu hùng của nhóm Đuốc Mồi; Hùng ca sử Việt của Đạt Phi Media, Tứ Bất Tử truyền kỳ của Minh Vy Home, Podcast của Sử Talk… cùng với đó là hàng trăm nghìn video trên mạng xã hội khai thác đề tài lịch sử, các vị anh hùng dân tộc, các trận chiến anh dũng của QĐND Việt Nam trải dài qua các cuộc thời kỳ chống Pháp, Mỹ và chống Nhật thu hút hàng trăm triệu lượt xem. Mà tiêu biểu nhất trong số này là bộ phim điện ảnh Đào, Phở và Piano trở thành hiện tượng suốt một thời gian dài.

Tức là, các yếu tố truyền thống đã được bảo tồn rất tốt và HIỆN NAY đang sống dậy vô cùng mạnh mẽ ở trong dòng chảy của âm nhạc, điện ảnh, thời trang, lịch sử và văn hoá ẩm thực (cũng như nhiều khía cạnh khác mà cô giáo chưa thể thống kê hết được).

Như vậy thì, quan điểm cho rằng văn hoá không bảo tồn được là đúng hay sai, mỗi người tự có câu trả lời cho riêng mình.

Cô giáo cho rằng nó hiển nhiên tới mức không cần phải tái khẳng định lại làm gì nữa cho mất công!

Câu hỏi đặt ra, là tại sao vào thời điểm này, văn hoá dân tộc lại trỗi dậy mạnh mẽ như thế mà không phải 5 hay 10 năm trước?

Phóng viên có hỏi cô một câu tương đối nhạy cảm, rằng có phải việc ra đi của Bác Trọng và câu nói của Bác về Văn hoá khiến tiết mục trống cơm có không gian và thêm cơ hội để viral?

Cô cho rằng, nếu khẳng định như vậy thì hơi khiên cưỡng và rất khó thuyết phục số đông.

Nhưng mọi việc xảy ra trên đời đều có nguyên do của nó!

Chất liệu truyền thống dân tộc được chú ý, được yêu thích và được lan truyền mạnh mẽ, công đầu phải đề cập tới thế hệ genz.

Chúng ta đang có một thế hệ trẻ cực kỳ văn minh, tiến bộ nhưng rất giàu bản sắc dân tộc. Và điều đó cũng không tự nhiên mà có. Nó phải đến từ sự ảnh hưởng của Gia đình, Giáo dục và đặc biệt là sự hà hơi góp sức của Truyền thông.

Mà một môi trường truyền thông định hướng được những điều tốt đẹp thì phải đến từ các Quyết sách ở phía Thượng tầng.

Bác Hồ từng nói, văn hóa là bản sắc của một dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn. Văn hóa mất thì dân tộc mất. Cố TBT Nguyễn Phú Trọng thì nói “văn hóa hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều nói đến những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, tiến bộ”.
“Người ta thường nói một con người có văn hóa, một gia đình có văn hóa, một dân tộc có văn hóa... Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái”.

Sẽ nguy hiểm vô cùng nếu cho rằng văn hoá không thể bảo tồn, để rồi quá tôn sùng và chạy theo những giá trị ngoại lai.

Nhưng trước hết, chúng ta cần tự hỏi, khi sống trong một giai đoạn mà khắp nơi đang “hừng hực” dòng chảy văn hoá lại không cảm nhận được gì. Thì có đáng thương quá hay không?


................/.