VĂN HÓA - YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN CỦA MỌI DÂN TỘC





VĂN HÓA -  YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN CỦA MỌI DÂN TỘC

http://www.viet-studies.net/kinhte/TruongQuangDe_VanHoaQuyetDinhPhatTrien.html
***
Trương Quang Đệ


Từ đầu thế kỷ 20, luồng tư tưởng duy vật trở thành chủ đạo trong mọi sinh hoạt của nhân loại, dẫn đến việc đánh giá sự thăng tiến của các quốc gia trên cơ sở kinh tế và mặc nhiên coi kinh tế là tiêu chí duy nhất để phấn đấu cho mọi quốc gia.  
Chẳng hạn tham vọng của nhà lãnh đạo Liên Xô những năm 60 của thế kỉ trước, ông Nikita Khroutchev là tìm cách đuổi kịp Mỹ vào năm 1970, vượt Mỹ vào năm 1980 và sau đó các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả Việt Nam, Mông cổ vv sẽ dắt tay nhau tiến vào chủ nghĩa cộng sản, tức là làm tùy năng,(lực), hưởng tùy nhu (cầu), sống tự do hoàn toàn trong một xã hội hết sức phồn vinh. Muốn vậy, phải vượt Mỹ về các chỉ tiêu kinh tế như số lượng dầu mỏ, thép, than, xi măng, máy kéo, xe tải, vệ tinh vv.
Trong kế hoạch vĩ đại này không thấy có yếu tố văn hóa xã hội nào cả.
Trước hết không có triết lý về phát triển. Kế hoạch của nhà nước bao cấp chủ yếu dựa vào số lượng mà không tính đến chất lượng. Năm này sản xuất được 5000 máy kéo thì năm sau phấn đấu lên 6000, không quan tâm xem máy kéo tốt hay xấu, có nhu cầu hay không. Thành tích của nhà máy sản xuất ô tô là tính nguyên chiếc, chẳng hạn 180.000 chiếc, không tính phụ tùng. Vì vậy nhà máy coi việc sản xuất phụ tùng là bất đắc dĩ. Có lần bản thân tôi chạy khắp Mascơva mà không tìm được nơi để mua một cái bugi xe máy. Tôi hỏi một người bạn Nga cách mua phụ tùng như thế nào thì anh cho biết các cơ quan và cá nhân phải kê khai nhu cầu cho các cấp quản lí, các cấp nầy sẽ đưa vào kế hoạch và phân về cho cơ sở.
Nền kinh tế bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa bị trói chân tay bằng những cách làm nhiêu khê như vậy. Kế hoạch nhà nước không lường được biến động trong công nghệ hay thị hiếu tiêu dùng. Không ai nghĩ được việc thay đổi nhanh chóng của ngành nhiếp ảnh chuyển từ phim kodak sang kĩ thuật số. Một trong những lí do khiến chủ nghĩa xã hội tan rã là sự phá sản của kinh tế kế hoạch hóa cứng nhắc. Vào những năm 1980 của thế kỉ trước, khi các nước phương Tây và Mỹ , Nhật Bản tiến vào cách mạng công nghiệp thứ ba thì Liên Xô và Đông Âu vẫn trong cách mạng công nghiệp thư hai, chưa ai nghĩ tới cuộc cách mang công nghiệp thứ tư đang tới gần và sự hội nhập khu vực cũng như toàn cầu trở nên cấp thiết.
Rõ ràng kế hoạch "vượt Mỹ" của Khroutchev chỉ là ảo tưởng, hay là tư duy lệch hướng trước thềm hội nhập toàn cầu và IOT.  Mặt khác, trong cuộc chạy đua giữa Liên Xô và Mỹ người ta không tình đến "tính văn hóa" của công dân mỗi nước, tức là thói quen suy nghĩ, hành xử...của con người. Ở Mỹ mọi người tự xoay xở lấy không trông cậy vào ai, thậm chí các trường đại học từ chối hỗ trợ của nhà nước vì sợ mất tự chủ. Trong khi đó công dân Liên xô mọi thứ đều trông chờ nhà nước, từ ăn ở, nuôi con, việc làm đến nghiên cứu khoa học, du lịch, giải trí. Không có ý kiến của các cấp lãnh đạo thì không ai chủ động làm gì, chưa nói đến việc nhà nước ngăn cấm công dân tự do kinh doanh, tự do sáng tạo.
Thực tế cho thấy những bước tiến công nghệ ở Mỹ đều do các cá nhân tay trắng làm nên. Ở Liên xô cũ, nhà nước thấy Phương Tây có gì mới thì giục dân mình học làm theo, thế thôi. Trong suốt bảy mươi năm tồn tại không thấy có sản phẩm xô viết nào đóng góp cho thị trường thế giới, trừ súng AK 47. Thời Gorbachev, ngân hàng bắt chước Phương Tây phát thẻ tín dụng làm phương tiện thanh toán văn minh thay tiền mặt. Nhưng đa số công dân lúc đó giỏi lắm có vài trăm rúp trong tài khoản, cần gì đến thẻ tín dụng?
Trường hợp Liên Xô cũ cho thấy sự phát triển kinh tế không dựa vào năng động trí tuệ và phẩm chất văn hóa cao sẽ bế tắc hoàn toàn. Bản thân tôi nghiệm thấy tầm quan trọng của văn hóa khi tôi có dịp làm việc tại Châu Phi. Hai nước láng giềng có điều kiện như nhau về tài nguyên, môi trường nhưng nước tôi ở lạc hậu nhiều so với nước lân cận. Một đồng nghiệp của tôi cho biết tôn giáo nước của anh buộc người nào làm nên phải cưu mang hết họ hàng. Quả vậy, một đêm tôi đến chơi nhà ông giám đốc của tôi, tôi tận mắt thấy có đến hơn hai mươi lều bạt cắm trong vườn. Hỏi ra mới biết bà con ông giám đốc đóng lều ở như vậy cho đến khi ông ta sắp xếp được công ăn việc làm cho tất cả mọi người. Không cần lí luận gì sâu xa cũng hiểu tại sao yếu tố tôn giáo đó không cho phép đất nước vươn lên.
Hiện nay ở Việt Nam đang diễn ra việc chống tham nhũng trong các cơ quan nhà nước mọi cấp. Báo chí, truyền thanh, truyền hình  và các cấp lãnh đạo chỉ nói về sự yếu kém trong quản lí, luật pháp chư hoàn chỉnh vv... trong việc tìm nguyên nhân tham nhũng.
Không thấy ai bàn về khía cạnh văn hóa của vấn đề.
Nước nào cũng có tham nhũng nhưng không phải nơi nào nạn tham nhũng cũng thành dịch bệnh khó chữa và định mệnh như Việt Nam và Trung Quốc. Chắc chắn phải tìm nguyên nhân sâu xa không phải trong các cách quản lý hay các chính sách mà phải trong cội nguồn văn hóa: Bao trùm tất cả là Nho giáo Khổng Mạnh và trực tiếp là tư tưởng Mao. 
Các nước văn minh thụ hưởng qua nhiều thế kỷ sự phân định rõ ràng các khái niệm nhà nước, chính quyền, nghị viện, công dân, cộng đồng v.v.  trong một nền dân chủ  đúng nghĩa. Mỗi công dân là một người đóng thuế và mỗi công chức là người được dân thuê làm việc cho dân. Ở Trung Quốc và Việt Nam, dầu các khái niệm trên được định nghĩa không khác với các nước văn minh, nhưng trong môi trường văn hóa cổ truyền, người ta ứng xử theo thói quen là chủ yếu. Chẳng hạn dân ta vẫn đánh giá con người qua địa vị xã hội, bằng cấp chứ không theo sự đóng góp tài chính (thuế) cho nhà nước. Các vị được trọng vọng đó đôi khi không đóng xu thuế nào nhưng lại được nhiều đặc quyền như bổng lộc, biệt thự, ở nhà khách miễn phí, đi xe, máy bay không mất tiền.
Sự việc này thuộc về tư duy truyền thống nho giáo coi người nhà nước (công chức) là "quan". Làm quan thì cả họ được nhờ nên đưa hết bà con vào cơ quan nhà nước, lạm dụng chức quyền và tham nhũng là hậu quả tất yếu.
Bên cạnh văn hóa quan lại cổ hủ đó, đã từ hơn nửa thế kỉ qua dấu ấn tư tưởng Mao "lấy nông thôn bao vây thành thị" tác động hết sức mạnh mẽ vào tiềm thức mọi người, nhất là đội ngũ cán bộ các cấp. Tư tưởng này gây dị ứng với cái mới, với văn minh đô thị, tăng xu hướng bài ngoại, coi thường luật pháp. Bản thân tôi trong hơn 60 năm qua đã chứng kiến những sự kiện mang dấu ấn Mao. Một lần đi xe đò từ Vinh ra Hà Nội, xe cán chết một con lợn dọc đường. Lập tức cán bộ địa phương và công an ập tới lập biên bản xử phạt xe đò. Lí do: phá hoại kinh tế địa phương, gây tổn thất cho hợp tác xã. Nếu có tư duy lành mạnh thì đáng ra chủ con lợn phải bị phạt vì vi phạm luật giao thông.
Một lần khác tôi đi xe lửa từ Hà Nội về Hải Phòng, qua địa phận Hưng Yên hay Hải Dương gì đó, tàu vấp phải một con trâu đang đứng trên đường sắt. Lập tức cán bộ địa phương chặn tàu lại đòi tiền phạt. Ngành đường sắt phải lép vế đóng tiền phạt. Một lần khác nũa tôi may mắn đạp kịp phanh xe máy trước một rãnh nước sâu mà bà con nông dân đào ngay trên đường nhựa để dẫn nước vào ruộng. Không cán bộ giao thông nào dám can thiệp vì sợ mất lập trường giai cấp. Tư tưởng Mao rất hiệu quả khi phát động chiến tranh chống Tưởng, chủ yếu phát động tính phá hoại trật tự sẵn có, nhưng để xây dựng một xã hội văn minh, nó trở thành vật cản khủng khiếp.
Sự hỗn loạn trong giao thông hiên nay ở các thành phố có nguồn gốc từ đó. Những năm đầu khi tiếp quản Hà Nội sau 1954 hay Sài Gòn sau 1975, không thể có chuyện phạt người đi bộ, đi xe máy, xe đạp nghêng ngang giữa phố vì họ thuộc thành phần cơ bản. Phạt họ thì lập trừơng giai cấp anh để đâu?  Những cán bộ nhà nước xuất thân từ thành phần cơ bản hay từ nông thôn đều thiếu ý thức về luật pháp, về ý thức cộng đồng và đặc biệt về khái niệm công dân. Họ chỉ nhận thức được sự khác biệt giữa người có quyền (cán bộ) và người không có quyền (dân, hay phó thường dân). Đặc điểm của tầng lớp này là coi của công như của riêng. Được phân công quản lý đất đai thì chiếm làm của riêng, được phân xe thì dùng cho gia đình, được bố trí ở nhà công thì chiếm luôn không chịu trả.  
Ở Hà Nội đầu những năm 60 của thế kỷ trước, khi Trường Albert Sarraut bị xóa bỏ, Sở Giáo Dục được giao quản lý cơ sở vật chất của trường này. Chỉ một tháng sau trường tan hoang, các phòng được phân cho người đến ở còn thư viện thì rao bán đồng nát. Sau 1975, một số cán bộ cao cấp vào Sài Gòn công tác, được phân tạm ở một số khách sạn. Đến khi xong nhiệm vụ trở về, họ gỡ hết mọi thứ trong phòng ở mang theo, từ quạt điện, bóng đèn đến bàn ghế, tủ. Cái văn hóa "chiếm đoạt" đã ăn sâu vào tâm can cán bộ thành phần cơ bản.
Nói chung ở Trung Quốc và Việt Nam do ý thức hệ đấu tranh giai cấp dựa vào thành phần cơ bản, trong một thời gian dài những phần tử có năng lực hiểu biết bị vây quanh bằng một lớp trùng điệp những kẻ tầm thường. Những kẻ này không muốn ai hơn mình nên cố sức kiềm chế và cô lập người giỏi. Họ không thực tâm phát triển văn hóa giáo dục, chỉ đặt ra cái này cái nọ để làm vật trang trí. Chính vì thế mà họ lệ thuộc nước ngoài đến từng chi tiết nhỏ. Tên các báo từ trước đến nay đều vay mượn. Tờ báo Cứu Quốc thời đầu cách mạng bị đổi thàng Nhân dân cho giống với Trung Quốc, còn tên bắt chước Liên xô thì quá nhiều: Sự thật, Tạp chí Cộng sản, Lao động,. Nhà in cũng lấy tên Tiến bộ; các nông trường mang các tên Cờ đỏ, Mồng 1 tháng 5 vv.
Những năm 60, 70 của thế kỷ trước cán bộ cấp tỉnh đều thuộc thành phần cơ bản nên hiểu biết của họ thật nghèo nàn quá mức. Có vị giải thích "mác xit là Mác và Stalin". Có vị nhận định: "Tito đứt đuôi là phản động. Nguyên thủ các nước xã hội chủ nghĩa đều là Chủ tịch riêng hắn ta xưng làm tổng thống!". Có vị nói Mỹ đổ quân chiếm đảo Cồn Cỏ (thuộc huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị, phía bắc vĩ tuyến 17) được một hôm thì ta cho đảo chìm xuống biển khiến chúng chết hết trọi. Có vị giảng chính trị cho đám sỹ quan quân đội Sài Gòn đang cải tạo như sau: Nhân dân ta từ xưa rất anh hùng, giặc Mông cổ đã từng chinh phục mọi nước từ Âu sang Á, từng đánh bại Napoléon vô địch châu Âu, mà vẫn bị quân ta đánh cho tơi bời.
Cũng may thế hệ trẻ hiện nay không đến nỗi như vậy. Bởi lẽ hiện nay do tình huống mở cửa, hội nhập nên muốn có địa v chuyên môn nào đó buộc phải biết tiếng Anh. Sau này muốn xóa bỏ sự tầm thường trong đội ngũ cán bộ, tốt nhất là lấy tiếng Anh làm chuẩn. Không có tiếng Anh sẽ không được giữ chức vụ gì. Cứ thế loại bỏ hết tàn dư của thành phần cơ bản. Thời thuộc Pháp, đội ngũ công chức khắp nơi có năng lực và hiểu biết nhiều do họ phải có trình độ tiếng Pháp cao. Cách mạng không duy trì tiêu chí kiến thức đó nên mở rộng cửa cho sự bất tài.
Không lấy văn hóa làm chuẩn thì càng phát triển về kinh tế, môi trường càng bị phá hoại và đạo đức sẽ rơi tự do không gì cản nổi.Từ sau 1975 đến nay, rừng bị chặt phá nhiều hơn thời quân Mỹ phun thuốc diệt cây cối. Không còn lâu nũa  sông suối, biển sẽ bị ô nhiễm nghiêm trọng, khó bề cứu vãn. Các cuộc họp của chính phủ chỉ thấy bàn tăng GDP, xây cái này cái nọ, không mấy khi nói đến môi trường, về cuộc sống bấp bênh của người dân vì các dự án treo, những trạm thu phí tràn lan. Việc xuống cấp về đạo đức và nhân cách, suy cho cùng, do thể chế chủ trương từ lâu xoá bỏ tầng lớp ưu tú tinh hoa hay còn gọi là tầng lớp trên.
Khi bắt đầu kháng chiến chống Pháp, chưa có phân định giai cấp rõ rệt, chính quyền cách mạng và quân đội vẫn do tầng lớp ưu tú đảm trách. Các bậc chỉ huy được đào tạo ở trường võ bị đều có bằng tú tài toàn phần. Cán bộ đa số xuất thân từ các tầng lớp ưu tú, có văn hóa. Tôi còn nhớ trong các trận càn của Pháp, khi bắt được người nào, lính Tây bắt ngửa tay ra xem. Nếu là tay trắng trẻo, tức là tầng lớp có học thì trói ngay dẫn về bốt vì chắc chắn đó là Việt Minh, còn nếu tay anh chai u, sần sùi, lập tức được tha. Từ ngày bị Stalin và sau đó là Mao khống chế, các tầng lớp trên bị xóa bỏ không thương tiếc trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và các cuộc chỉnh huấn.
Chiến dịch Điện Biên Phủ, thành công, đáng ra trên thế chẻ tre giải phóng thêm nhiều vùng khác thì quân đội được lệnh tổ chức chỉnh huấn để loại hết những thành phần ưu tú không cơ bản. Từ sau 1954 trở đi, trí thức, nhân sĩ chỉ đóng vai trò bù nhìn, trang trí, không làm gì thực chất. Bản thân tôi đi lao động sáu tháng ở nông thôn, tôi phát hiện thấy đa số cán bộ huyện có học bị thay thế từ năm 1958 bằng bần cố nông hay công nhân. Về nguyên tắc là vậy nhưng thực tế bần cố nông hiền lành chất phác, khó đảm đương công việc phức tạp nên các thành phần làm ăn tự do như lái trâu, lái lợn có cơ hội được thăng tiến mạnh và khuynh đảo mọi thứ.
Ở các chế độ được coi là xấu xa ngày xưa, phong kiến thuộc địa, hiếm thấy người nào không có năng lực mà lại dám đảm nhiệm công việc quá tầm tay. Chẳng hạn không biết chữ thì khó ra làm quan. Dưới chế độ mới, nhà nước chỉ dựa vào công nông, lấy sự trung thành với thể chế chính trị làm chuẩn, bất chấp năng lực. Có vị làm hiệu phó một đại học mà xuất thân từ du kích địa phương. Có vị làm khoa trưởng tiếng Anh mà không biết một ngoại ngữ nào.
Cũng do văn hóa không được lấy làm chuẩn nên các chủ trương chính sách đều khập khiểng. Đầu tư cho giáo dục ở mức thấp đến nỗi các trường học nhếch nhác, cư xá sinh viên nghèo nàn lạc hậu trong khi tiền dồn cho việc nuôi dưỡng một bộ máy hành chính cồng kềnh kém hiệu quả, những xí nghiệp quốc doanh thua lỗ, tham nhũng, những công trình ngàn tỷ đắp chiếu vv. Sinh hoạt trí tuệ bế tắc, các tôn giáo bị ghẻ lạnh nên không phát huy được vai trò chăm sóc phần hồn cho người dân. Lịch sử bị chế biến thành một thứ kinh kệ mơ hồ khiến mỗi người dân không xác định được mình là ai. Khẩu hiệu "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" đặt tuyên truyền lên trên chân lý làm cho người ta bị hỏa mù trong nhận thức. Các cụ Phan Sào Nam và Phan Tây Hồ có yêu nước không vì họ đâu có theo chủ nghĩa xã hội? Người Nga hiện nay có còn yêu nước không? Những điều ngớ ngẩn đó nói lên rằng trí tuệ bị nhào nặn không còn hình hài gì nữa.
Tình hình đó đòi hỏi phải có biện pháp sửa chữa mạnh mẽ và thiết thực chứ không chỉ lời nói suông.
Theo tôi, nhà nước cần cấp tốc đặt ra chiến lược văn hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ chủ quỳền quốc gia. Từ lâu tôi nghe nói ở Israel người lính có thể không tuân lệnh chỉ huy nếu anh ta thấy chỉ huy không đúng. Mới nghe qua thấy có vẻ phi lí, trái với điều lệ của mọi đảng phái và mọi lí thuyết quân sự. Nghĩ cho kỹ thấy không hẳn như vậy và nhờ đó mà quốc gia Do Thái nhỏ bé tồn tại. Thực vậy, hoàn cảnh Israel mấy triệu dân bị hàng trăm triệu dân thù địch bao vây tứ phía phải phát huy hết tiềm lực người dân bằng cách cho từng người hành động theo sáng kiến riêng. Mỗi người dân đủ thông minh để phối hợp với nhau một cách hiệu quả trong việc bảo vệ đất nước. Việt Nam, trong chừng mực nào đó cũng sẽ bị tràn ngập trong một biển người có một thứ văn hóa nghiệt ngã với màu sắc diệt chủng. Việc đầu tư tiến của mua sắm khí giới, xây dựng nền quốc phòng tiên tiến là điều cần thiết, nhưng không đủ. Phải có một trình độ văn hóa cho toàn dân vượt trội hẳn so với thế lực bành trướng thù địch.
Các nhà văn hóa tư tưởng của ta xưa nay bó hẹp trình độ văn hóa vào khuôn khổ kiến thức, tức là mặt chỉ số trí tuệ IQ mà không nghĩ tới lối ứng xử trong cuộc sống, tức là mặt hành vi xã hội EQ. Điều ai cũng thấy rõ là lối ứng xử xã hội của ta và Trung Quốc còn ở giai đoạn thô thiển so với cuộc sống văn minh. Ta không có thói quen sắp hàng, nhường đường cho nhau, tôn trọng người già, phụ nữ, ưu tiên tuyệt đối trẻ nhỏ vv. Báo chí cho biết không ít người Trung Quốc ngạc nhiên thấy người Mỹ trong trận khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 ở New York, các nạn nhân vẫn biết nhường nhau khi chạy thoát ngọn lửa.
Về phương diện EQ dân ta vẫn bị nhiều xiềng xích ràng buộc. Lòng đố kỵ gần như phổ biến mọi nơi mọi cấp, mọi lúc. Thấy ai hơn mình lập tức tìm cách triệt hạ tuy ngày nào cũng hô hào sử dụng người tài. Tình giả dối là căn bệnh trầm kha khó bề chữa chạy. Bệnh hám danh hảo, khoa trương, mê thành tích cũng là yếu tố nguy hại trong khi ý thức cộng đồng, sự hợp tác lành mạnh văn minh chưa có chân đứng bền vững.
Loại trừ những yếu kém về ứng xử văn hóa là điều cấp bách, phải được ưu tiên giải quyết trước khi bàn về kiến thức.
Một câu hỏi đặt ra: Nền tảng văn hóa của người Việt hiện nay là gì? Chúng ta đã bỏ không dùng chữ Hán ngàn xưa nữa làm cho cánh trẻ không còn dây liên hệ với vốn văn hóa cổ, bỏ văn hóa Pháp rộng mở với thế giới bên ngoài xưa và nay mà hòa mình vào văn hóa ASEAN chưa rõ định hình.
Trí thức Việt Nam hiện nay thấy lơ lửng trong tư duy và cả trong phát ngôn. Chứng cớ là các nhà chính trị không biết phát âm cụm chữ cái CLMV như thế nào, cờ lờ mờ vờ hay xê el em vê hay xi eo em vi. Hình như ngành tòa án lấy tiếng Anh làm chuẩn: Vừa qua một ông chánh án phát âm PVC là pi vi xi. Không biết gọi tên nước thế nào cho đúng: Libanon hay Li băng? Úc hay Ôt-strây-lia? Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 các nho sỹ dựa vào Hán tự mà tiếp cận thế giới. Những danh từ riêng thế giới được đọc quá âm Hán-việt: Pháp lang sa, Anh cát lợi, Nga la tư....Mạc tư khoa, Luân đôn, Ba lê,,,Các tên người qua âm Hán-Việt: Mạnh đức tư cưu (Montesquieu), Lã Phụng Tiên (La Fontaine), Lư Thoa (Rousseau)....Mã khắc Tư (Marx), Tư Đại Lâm (Staline), Hoa Thịnh Đốn (Washington)...Tiếp đó các nhà Tây học dựa vào tiếng Pháp để tiếp cận thế giới, mọi danh từ riêng đều phát âm và viết theo tiếng Pháp: Londres, Moscou, Lénine, Russie, ONU, OTAN, ...
Từ ngày mất đi các hệ qui chiếu Hán và Pháp, người Việt xoay xở mạnh ai nấy được, không có qui tắc gì.
Các ngành bưu điện viễn thông, ngân hàng dùng tiếng Anh trong mọi giao dịch, những ngành khác thì hoàn toàn tự do tùy tiện. Vậy vấn đề cấp bách là phải có qui chiếu Việt. Phải có qui tắc thống nhất  cho mọi đối tượng, hiện tượng. Hiện nay thông qua qui trình hội nhập khu vực và quốc tế, văn hóa Mỹ trở thành chuẩn mực cho nhiều lĩnh vực hoạt động. Nguy cơ từ đó là không còn đa dạng văn hóa nữa, điều mà không riêng Việt Nam mà cả thế giới lo ngại. Theo tôi, để giữ gìn sự đa dạng văn hóa của người Việt, ta cần giữ gìn vốn văn hóa Hán ngữ và văn hóa Pháp. Chẳng hạn phải dạy chữ Hán (không phải tiếng Hoa mà là chữ Hán truyền thống của ta) cho hai bậc phổ thông cơ sở và phổ thông trung học mỗi tuần một tiết. Về văn hóa Pháp cần có chiến lược bền vững qua những sự nghiệp pháp ngữ to lớn về kinh tế, văn hóa. Đã đến lúc phải định hình một nền văn hóa Việt phong phú và vững chắc, đảm bảo cho dân tộc trường tồn và hạnh phúc.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 26-2-18 

....../.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông



Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông (1932-2018)


Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là người con của Tây Ninh. Gia đình ông thuộc nhóm giàu có thời đó (gọi là "điền chủ"). Ông từng theo học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, nơi ông cũng tiếp thụ âm nhạc của các giáo sư Pháp giảng dạy. Ông vào quân đội năm 1951; được gửi đi huấn luyện chỉ huy quân đội ở Hà Nội; 1954 trở thành tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trọng pháo 553 khi mới 24 tuổi; 1957 đi học ở Hawaii; 1972 được thăng chức đại tá và chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu Phó đến năm 1975. Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo 10 năm trời. Ông tâm sự những ngày tháng sau tù: "Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập 'cải tạo' 10 năm. Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp. Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng như ngoài nước." Sau khi ra tù, dù có thể đi Mĩ theo diện HO nhưng ông chọn ở lại Việt Nam cho đến ngày qua đời.

Theo Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo, sau 1975 gia đình ông sống nhờ quán bán bánh mì và giò chả (hiệu Nhiên Hương) tại nhà đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận. Hai ông bà nhạc sĩ không có con. Ông được đồng nghiệp và bạn bè yêu quí. Như là lời nói hộ cho nhiều nghệ sĩ, Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo nhận xét rằng: “Với thầy Đông, tôi chỉ biết nói rằng tôi kính phục ông nhất hai điểm, đó là tài hoa và tư cách.”

Tài hoa. Đó là chữ rất đúng để mô tả sự nghiệp âm nhạc của ông. Chẳng hạn như ca khúc "Chiều mưa biên giới" Trong một bài trả lời phỏng vấn Nhạc sĩ Trường Kỳ, ông cho biết hoàn cảnh ra đời của bài Chiều mưa biên giới như sau: “Bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là trung úy trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu...”

Một ca khúc khác ít người biết đến là "Hải ngoại thương ca". Thoạt đầu người ta tưởng đây là sáng tác cho 'Việt kiều', nhưng không phải.
Ông sáng tác ca khúc này vào năm 1963, nhân vụ đảo chánh ở miền Nam và tướng Nguyễn Chánh Thi phải trốn ra ngoại quốc: “… Đến năm 1963, có một cuộc đảo chánh lần thứ nhì khiến chế độ của ông Ngô Đình Diệm bị suy sụp.. Lúc đó mọi người lên tiếng kêu gọi những anh em ly tán sau cuộc đảo chánh lằn thứ nhất đang ở ngọai quốc trở về. Lúc đó tôi thấy một số bạn bè của tôi vẫn còn do dự chưa muốn trở về . Điều này nó thôi thúc tôi viết bài Hải Ngoạii Thương Ca, có ý nói bây giờ trong nước cũng vui vẻ...”. Bài này mãi đến 2004 mới được trình diễn.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông tâm sự: ”Năm 2004 bài Hải Ngọai Thương Ca được đưa ra ngoài Hà Nội duyệt. Thì ngoài Hà Nội mới hỏi tôi: có phải bài Hải Ngoại Thương Ca Này mới viết không mà sao nó sát với đề tài của thời cuộc này quá vậy?. Nó hay đấy . Đấy là lời của một vị lãnh đạo của cục Văn Hóa Nghệ Thuật.

[...]

Bây giờ nhìn lại thời 20 năm văn nghệ miền Nam tôi thấy kinh ngạc về tính phong phú và đa dạng của nên văn nghệ đó. Chỉ nói riêng về âm nhạc thôi, 20 năm đó đã để lại cho nền văn hoá dân tộc nhiều dấu ấn qua những ca khúc đầy tính nhân bản. Có thể nói tính nhân bản trong âm nhạc là đặc điểm phân biệt rất rõ giữa văn nghệ miền Nam và miền Bắc trong thời chiến. Điển hình như Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, là một quân nhân trong thời chiến, nhưng nhạc của ông thì không thấy hình súng đạn, lửa khói hay màu máu đâu cả, thay vào đó là những lời ca thật đẹp, đầy chất lãng mạn, thấm đẫm tình quê hương và nhân bản.



******

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông [trích]

(nguoi-viet.com)

Du Tử Lê



[....]


Trong 20 năm tân nhạc miền Nam, Việt Nam, Nguyễn Văn Ðông cũng là một nhạc sĩ nổi tiếng không chỉ với một hai ca khúc viết về người lính mà, với hầu hết những ca khúc ông viết về dề tài này.
 
Những ca khúc làm thành tên tuổi ông như ca khúc “Phiên Gác Ðêm Xuân,” ông sáng tác đêm giao thừa 1956, khi đang đóng quân ở Khu 9, Ðồng Tháp Mười. Hai ca khúc nổi tiếng khác của họ Nguyễn cũng được ra đời sau đó, là ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới,” khi ông đóng quân gần biến giới Việt-Miên và “Mấy Dặm Sơn Khê,” khi đồn trú ở vùng cao nguyên Trung phần.

Nhưng chân dung hay, hình ảnh người lính trong các ca khúc vừa kể của Nguyễn Văn Ðông, tuy cũng đậm tính thơ mộng... Nhưng đó là cái thơ mộng dung dị, nhân bản, gần với đa số, với đám đông, những người lính vô danh.

“Ðón giao thừa một phiên gác đêm / chào xuân đến súng xa vang rền / xác hoa tàn rơi trên báng súng / ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi /...? Ước mong nhiều đời không bấy nhiêu / vì mơ ước trắng như mây chiều / tủi duyên người năm năm tháng tháng / mong chờ ánh xuân sang, ngờ đâu đêm cứ đi / Chốn biên thùy này xuân tới chi? / tình lính chiến khác chi bao người / nếu xuân về tang thương khắp lối / thương này khó cho vơi, thì đừng đến xuân ơi! (Trích “Phiên Gác Ðêm Xuân”)

Ông cũng không khẳng định người lính của ông phải là người tạo được những chiến thắng lẫy lừng mà, chỉ là những cá nhân bình thường, với những tâm tình, những khát khao, nhớ thương đời thường:

“Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay / Lưng trời nhớ sắc mây pha hồng / đường rừng chiều cô đơn chiếc bóng / người tìm về trong hơi áo âm / gợi niềm xa xăm/ Người đi khu chiến thương người hậu phương / thương màu áo gửi ra sa trường / lòng trần còn tơ vương khanh tướng / thì đường trần còn mưa bay gió cuốn / còn nhiều anh ơi!” (Trích “Chiều Mưa Biên Giới”)

[...] chân dung người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là một chân dung bình dị, không quá đặc biệt. Không ngoại lệ. Ðó là một con người như bất cứ một con người nào thuộc về đám đông. Vì ngoài bổn phận người lính, thì trong thẩm sâu của tâm hồn người lính, vẫn là một con người (như mọi người,) với cá tính, rung động, cảm nhận chân thật khi đối đầu, cọ sát với thực tế và vận mệnh chung của dân tộc:

“Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng / ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê / non nước ơi, hồn thiêng của núi sông / kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa / Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lãng / chờ mùa xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang / anh đến đây rồi anh như bóng mây / chốn phương trời ấm lạnh, hòa chung mái nhà tranh / Anh như làn gió, ham ngược xuôi theo đường mây / tóc tơi bời lộng gió bốn phương / nước non còn đó, một tấc lòng / không mờ xóa cùng năm tháng / mấy ai ra đi hẹn về / dệt nốt tơ duyên...” (Trích “Mấy Dặm Sơn Khê”)

[...]

Mặc dù họ Nguyễn tình nguyện hiến cuộc đời mình cho quân đội khi ông còn rất trẻ; nhưng bên cạnh tư cách một người lính, ông còn là một nhạc sĩ. Trong vai trò này, ông lại là nhạc sĩ miền Nam, được thế giới biết đến tên tuổi rất sớm.

Ðiển hình là sự kiện ngay từ năm 1961, nghệ sĩ Trần Văn Trạch đã được đài Europe No.1 và Ðài Truyền Hình Pháp thu âm, rồi thu hình ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” của ông, gây tiếng vang lớn ở Âu Châu. “Biến động” này đã tạo sức dội ngược về Việt Nam, khiến chỉ trong vòng 3 tháng, nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, đã bán hết 60,000 bản nhạc lẻ, phá kỷ lục số ấn bản lớn nhất từ xưa, ở thời điểm đó. [...]

Tôi cho họ Nguyễn là một trường hợp đặc biệt của giới văn nghệ sĩ miền Nam Việt Nam, 20 năm. Khi, một mặt, ông vẫn chu toàn nhiệm vụ “người lính gác giặc” của mình. Mặt khác, ông vẫn can đảm cất lên tiếng nói của lương tri. Tiếng nói của một kẻ sĩ trước thời cuộc. Những ghi nhận từ đáy tầng khát khao của dân tộc, đất nước...

Vì thế, ngay khi lệnh cấm của Bộ Thông Tin được báo chí thời đó đăng tải nơi trang nhất thì dư luận quần chúng khắp nơi đã đồng loạt phản ứng. Họ bênh vực họ Nguyễn, như bênh vực người phát ngôn trung thực nhất, về những mơ ước, khát khao thầm kín của họ. Phản ứng bất ngờ của đám đông cũng khiến nhiều cơ quan ngôn luận nhập cuộc. Lên tiếng bênh vực. Ủng hộ tinh thần tác giả “Chiều Mưa Biên Giới.”

[....]

Riêng ca khúc “Anh” tức “Anh Nhớ Gì Không Anh” của họ Nguyễn thì bị cấm vì các câu như: “Nước mắt dân Hời, thành quách một thời tan tành hệ bởi đâu? Sao ta nỡ xa ta, xẻ chia sơn hà cho Bắc Nam mình xa cách nhau!”

Như đã nói, cái tinh thần kẻ sĩ, cái ý thức đất nước, dân tộc, khiến Nguyễn Văn Ðông chấp nhận thua thiệt trong binh nghiệp, nhưng bảo vệ được khí tiết của một kẻ sĩ thao thức, trằn trọc trước tang thương đất nước. Nhưng đó là sự lên tiếng của một người lính tự nguyện. Một người lính vẫn làm tròn bổn phận của một công dân thời đất nước binh đao, ly loạn... Sự kiện này vẫn khác, hoàn toàn khác với những nhạc sĩ cũng giương cao ngọn cờ phản chiến; nhưng lại là những người từ chối trách nhiệm của một công dân trước thời cuộc.

Hơn một lần, nhạc sĩ Hoàng Thi Thao từng nói với tôi, “Về phương diện nhạc chống chiến tranh thì, Nguyễn Văn Ðông là người thứ nhất, người đầu tiên xông xáo vào con đường nhậy cảm và, gai góc này.”

Tuy nhiên, tôi vẫn thấy cần phải ghi nhận một cách công bình rằng, tiếng nói của Nguyễn Văn Ðông, cách gì, cũng vẫn là tiếng nói phản ảnh tâm tư của một nghệ sĩ đau đáu trước những đau thương, tang chế của đất nước - Song song với con người chọn con đường binh nghiệp khi còn rất trẻ. Ðó là sự khác biệt to lớn, giữa một người đứng trong lửa đạn và, những người đứng ngoài, với những kêu đòi vô trách nhiệm.

Trong đời nhạc Nguyễn Văn Ðông, tình yêu tổ quốc luôn nồng nàn, như thể đó là tình yêu thứ nhất của đời ông:

“Và xin em hiểu rằng, người đi giúp nước nào màng danh chi - Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy - Lòng anh vẫn nhớ tình người hôm nay - Ðời dâng cho núi sông - Lòng này thách với tang bồng - Ðừng làm má thắm phai hồng, buồn lắm em ơi!...” (Trích “Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp”)

Hoặc:

“Người về đây giữa non sông này - Hội trùng dương hát câu sum vầy - Về cho thấy con thuyền nước Nam - Ði vào mùa xuân mới sang - Xa rồi ngày ấy ly tan - Tôi đi giữa trời bồi hồi - Cờ bay phất phới tôi quên chuyện ngày xưa - Mong sao nước Việt đời đời - Anh dũng oai hùng chen chân thế giới...” (Trích “Hải Ngoại Thương Ca”)

Tôi cho đó là tấm lòng, là trái tim của một nghệ sĩ chọn ở với tổ quốc của mình, bằng một tình yêu một chiều; mà, không một tình yêu nào có thể so sánh hoặc thay thế được.

.............................

Chú thích:
(2) Ðại nhạc hội này do nhà xuất bản Trăm Hoa Miền Nam tổ chức. Nhân đây, cũng xin lưu ý: “Trăm Hoa Miền Nam” và “Tinh Hoa Miền Nam” là hai nhà xuất bản nhạc lẻ khác nhau.
..............................



[...] Về cái mà tôi muốn gọi là “nhạc nghiệp” của nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Văn Ðông, theo một số tài liệu đã được phổ biến ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam thì: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông chính thức tham dự vào sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam Việt Nam vào khoảng giữa thập niên 1950. Ông nổi danh ngay với những ca khúc đầu tay như “Chiều Mưa Biên Giới,” “Phiên Gác Ðêm Xuân,” “Súng Ðàn”... là ba ca khúc ra đời trong năm 1956 và được phổ biến rất rộng rãi. Nhưng ca khúc “Thiếu Sinh Quân Hành Khúc” bài hát được công nhận là ca khúc chính thức của trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, Nguyễn sáng tác năm 1948, khi mới 16 tuổi, mới thực sự là sáng tác đầu tay của người nhạc sĩ đa tài này.

Ngoài bút hiệu và cũng là tên thật, Nguyễn Văn Ðông, họ Nguyễn còn dùng nhiều bút hiệu khác như Phượng Linh, Phương Hà, Ðông Phương Tử, Vì Dân, Hoàng Long Nguyên.
[...]
Nói tới nhạc nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông mà, không nói tới thời gian họ Nguyễn làm giám đốc hãng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, nổi tiếng một thời ở miền Nam, tôi cho là một thiếu sót quan trọng.

Ở vai trò này, với sự hợp tác tích cực của những nhạc sĩ như Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Y Vân, Lê Văn Thiện... Hai hãng đĩa của ông đã đem sự giầu có, phong phú cho sinh hoạt tân nhạc cũng như cổ nhạc miền Nam, 20 năm; với những album riêng cho từng ca sĩ.

[...]


.... nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông không chỉ có những đóng góp đáng kể cho phong trào “Tân cổ giao duyên” mà, ông còn là đạo diễn, viết nhạc nền, sáng tác ca khúc lồng trong trên dưới 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam. Ðiển hình như các vở tuồng “Nửa Ðời Hương Phấn” của soạn giả Hà Triều-Hoa Phượng; “Sân Khấu Về Khuya” của soạn giả Năm Châu; “Mắt Em Là Bể Oan Cừu” của soạn giả Vân An v.v...

Theo một tài liệu chúng tôi hiện có thì, vào năm 1960, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cùng một người bạn vong niên là nhà doanh nghiệp Huỳnh Văn Tứ, đồng sáng lập hãng băng đĩa Continental. Ông Huỳnh văn Tứ đảm trách vai trò Giám đốc sản xuất. Họ Nguyễn đảm nhận trách nhiệm Giám đốc nghệ thuật. Hãng đĩa Continental có 36 chi nhánh, phát hành toàn miền Nam - Chủ trương phát triển cùng lúc 2 bộ môn tân và cổ nhạc. Khi đó, tác giả “Phiên Gác Ðêm Xuân” được rất nhiều soạn giả cải lương nổi tiếng cộng tác. Nhưng các soạn giả này lại không rành lắm về tân nhạc. Do đó, việc dàn dựng kịch bản thường không ăn khớp với tân nhạc. Ðể bổ khuyết, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông phải “lăn lưng” vào cuộc. Ông dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi... sau một thời gian ông đâm ra yêu thích bộ môn nghệ thuật ấy.

Ông kể: “Tôi rất nhớ ơn cố soạn giả Hoàng Khâm và các tay danh cầm bên cổ nhạc như Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm... Họ đã chỉ vẽ cho tôi một cách tận tình, không giấu nghề. Vì thế mà chỉ một năm sau, tôi đã có thể tự tin đủ sức bước sâu vào lãnh vực mới mẻ này; cũng với tất cả đam mê, như khi tôi ‘khám phá’ thế giới tân nhạc, trước đó vậy.”

[...]

Trước khi chấm dứt bài viết về con “Thiên lý mã” của dòng âm nhạc miền Nam, 20 năm, chúng tôi muốn ghi lại ở đây, mối tình của họ Nguyễn với một người con gái, nơi quê hương của ông. Ðó là người được xác nhận là linh hồn của ca khúc “Về Mái Nhà Xưa,” một trong những ca khúc “tìm về” mà, tôi cho là hay nhất và, cũng cảm động nhất của nền tân nhạc miền Nam 20 năm.

Quý độc giả theo dõi bài viết này hẳn còn nhớ, Tây Ninh là nguyên quán của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông. Gia đình ông nguyên là điền chủ ở Huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Mỗi năm, vào những dịp giỗ chạp lớn, ông được cha mẹ cho về nguyên quán. Gần bên ngôi từ đường của dòng họ Nguyễn, là nhà ông Hương Cả, một chức sắc lớn nhất làng. Ông Hương Cả có một cô con gái xinh đẹp. Hai bên gia đình cùng giao ước kết thông gia khi hai trẻ lớn lên. Khi ấy tác giả “Về Mái Nhà Xưa” và cô bé kia, mới trên dưới 10 tuổi. Ở tuổi niên thiếu này, cả hai chỉ biết hẹn hò trèo cây, hái trái, hay chơi trò trốn bắt... (Những kỷ niệm ấy là tố chất cho họ Nguyễn sau này, viết được ca khúc nhan đề “Ðom Ðóm”). Tuy thơ dại nhưng tình bạn thắm thiết cũng đã đủ gây thành men nhớ nhung và, đôi khi nước mắt, cho mỗi lần đôi trẻ phải chia tay.

Họ Nguyễn kể, khi cách mạng mùa Thu 1945 bùng nổ, ông Hương Cả bị đưa ra trước tòa án nhân dân; lãnh bản án “cường hào ác bá.” Ông bị xử bắn. Xác ông bị thả trôi sông. Riêng cha mẹ nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông từ Saigon tản cư về, thì bị liệt vào hàng “địa chủ ác ôn.” Ông bà bị bắt làm tù lao công khổ sai. Tịch biên tài sản; sung vào quỹ kháng chiến. Gia đình ly tán. Cửa nhà tan nát. Dôi trẻ trôi giạt, mỗi người một phương. Họ bặt tin nhau!

Cuối thập niên 50, nhớ thương bạn, họ Nguyễn cải trang tìm về chốn cũ... Tận mắt nhìn thấy cảnh xưa điêu tàn và, những người làng còn lại, không một ai cho ông chút tin tức nào về người con gái của ông Hương Cả! Về lại Saigòn, họ Nguyễn viết:
“Về đây ngơ ngác chim bay tìm đàn - Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn - Tôi lắng nghe tâm tình nhân thế - qua đáy tim chưa đục sông mê (4) - qua ước mơ duyên tình đơn sơ - Về đây đâu phút xưa vui sum vầy - thềm hoang thêu nắng, phượng thắm rơi đầy - anh có nghe trong lòng thu chết - bao lá khô phai nhạt hương đêm - tan tác bay phiêu bạt giữa trời quê - Nơi xưa quê nghèo, nhà tranh nát tiêu điều - tình xưa khôn hàn gắn - người đã đi rồi - người về đâu có hay - đâu vòng tay đắm say?...” (Trích “Về Mái Nhà Xưa.”)

Tôi vẫn nghĩ, những người sinh trong hai thập niên 1930 và, 1940 ít, nhiều đều là nạn nhân của cuộc chiến miền nam 20 năm. Ðổ vỡ, chia ly, tuyệt vọng... là thuộc tính của hoàn cảnh loạn ly này. Nên, tôi mong, người phụ nữ, linh hồn của ca khúc vừa kể, nếu còn đâu đó, tình cờ đọc được những hàng chữ này, xin hiểu rằng, cách gì, sự lỡ làng một đời của bà, chí ít cũng được ghi dấu trong sự nghiệp âm nhạc phong phú, bất tử của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông... Trong khi hàng ngàn, hàng triệu những cuộc tình ly tan, oan khốc khác, cũng chìm vào quên lãng. Dù những cây phượng vĩ, mỗi năm vẫn cho chúng ta những cánh hoa rực rỡ, và, những chiếc lá khô vẫn tiếp tục “phai nhạt theo hương đêm” vậy.

Du Tử Lê
(22 Tháng Mười Hai, 2009)

Chú thích:

(4) Câu hát “qua đáy tim chưa đục sông mê,” có bản chép là “qua trái tim chưa đọng song mê,” theo tác giả là sai và, vô nghĩa. Giải thích về hai chữ “song mê,’ họ Nguyễn kể, Tây Ninh, nguyên quán của tác giả, có Thánh Thất Cao Ðài, rất nổi tiếng. Theo các vị trưởng lão, tín đồ Cao Ðài thì chuyện luân hồi, hóa kiếp theo truyền thuyết của đạo Cao Ðài, có thể tóm tắt như sau:

Con người khi chết, ai cũng bị quỷ sứ dắt hồn xuống âm phủ, để Diêm Vương xét công, luận tội. Kẻ ác bị đưa vào địa ngục thọ hình. Người tốt được trở lại trần thế, làm người. Trên đường đi hóa kiếp, quỷ A tu la dẫn hồn đến một nơi gọi là bến Mê, rồi băng qua một chiếc cầu gọi là cầu Giải kiết. Cầu này bắc ngang qua sông Mê. Ðến giữa cầu, quỷ A tu la xô hồn xuống sông. Hồn gào thét vùng vẫy kêu cứu, làm vẩn đục cả dòng sông. Khi hồn kiệt sức, ngất đi, lúc đó, quỷ A tu la mới vớt hồn lên dẫn đi tiếp về dương gian. Từ đó, hồn không còn nhớ gì về kiếp trước của mình nữa...


......../.