'Lợi ích nhóm' nằm trong Luật Đất đai


'Lợi ích nhóm' nằm trong Luật Đất đai

*

http://motthegioi.vn/chuyen-hom-nay-c-155/loi-ich-nhom-nam-trong-luat-dat-dai-80970.html

*

Hoàng Hải Vân





 Luật Đất đai là một trong những đạo luật có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến đời sống của người dân, nhất là nông dân và là một đạo luật mà bóng dáng của các nhóm lợi ích hiện hình rõ nhất.

Hơn 80% đơn khiếu kiện của người dân gửi lên các cơ quan Trung ương là khiếu kiện liên quan đến đất đai. Dù Luật Đất đai đã được sửa đổi nhiều lần theo hướng tiệm cận với cơ chế thị trường, nhưng tình trạng khiếu kiện không những không giảm mà còn có xu hướng gia tăng. 

Mới đây Bộ Tài nguyên và môi trường lại có ý định sửa đổi Luật Đất đai, do những bất cập của nó chỉ sau 4 năm thi hành. Tuy nhiên, sự bất cập dưới cái nhìn của nông dân rất khác với sự bất cập dưới cái nhìn của những người soạn thảo. Phạm vi bài này chỉ nói về vấn đề Nhà nước thu hồi đất. Vì phần lớn các khiếu kiện về đất đai đều liên quan đến các chính sách đền bù giải tỏa khi thu hồi đất, cho nên có thể nói đây là một trong những vấn đề mấu chốt cần được mổ xẻ.

Việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng và an ninh theo điều 61 Luật Đất đai không khiến ai thắc mắc. Việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai (điều 64), do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (điều 65) cũng không có vấn đề gì lớn. Nhưng thu hồi đất để “phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng” quy định tại điều 62 thì có vấn đề nghiêm trọng. Việc thu hồi đất quy định tại điều này áp dụng cho các dự án quan trọng do Quốc Hội quyết định chủ trương đầu tư, các dự án do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư và các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận. Đây là điều khoản mơ hồ nhất và dễ bị lợi dụng nhất của Luật Đất đai. 

Vì những lý do sau:

Thứ nhất, khái niệm “phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng” không có nội hàm được xác định, có nghĩa là các trường hợp Nhà nước thu hồi đất là quá rộng. Đối với các dự án quan trọng do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư hay các dự án do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư còn có những giới hạn có thể hiểu được, nhưng đối với các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận thì được mở rộng… "vô biên", trong đó có cả các dự án khu đô thị mới, dự án khu dân cư nông thôn, dự án chế biến nông, lâm, thủy, hải sản…, không phân biệt đó là dự án của tư nhân hay nhà nước.

Thứ hai, với phạm vi thu hồi đất được mở rộng vô hạn độ như vậy, trong cơ chế dân chủ nhất nguyên về chính trị ở nước ta, bất cứ một “đại gia” nào muốn đẩy nông dân ra khỏi ruộng vườn của họ để lấy đất làm dự án, chỉ cần thuyết phục hay mua chuộc được Bí thư hay Chủ tịch tỉnh thì đều có thể dễ dàng lấy được sự chấp thuận của Hội đồng nhân dân.

Nói ra thực tế này chúng tôi hoàn toàn không có ý coi thường các vị Bí thư hay Chủ tịch các tỉnh, vì rất nhiều Bí thư và Chủ tịch tỉnh một lòng vì dân vì nước. Điều chúng tôi muốn nói là một điều luật như điều luật trên đang dễ dàng tạo điều kiện cho người xấu làm việc xấu và rất có thể “chuyển hóa” một người tốt thành một người xấu, trong khi mục đích tối thượng của luật pháp là ngăn chặn người xấu không làm việc xấu. Tình trạng “chạy dự án” rồi sử dụng lực lượng cưỡng chế của chính quyền để lấy đất của nông dân mà chúng ta thường nghe nói, phần lớn được điều luật này tiếp tay, dung túng.

Lẽ ra, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước chỉ nên thu hồi đất dành cho các công trình quốc phòng – an ninh, cho các dự án công cộng và hoạt động công ích, cho các công trình trọng điểm làm đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế với mức đền bù thỏa đáng cho người dân theo giá thị trường, còn mọi dự án kinh tế - xã hội của mọi thành phần kinh tế đều thực hiện theo nguyên tắc của thị trường, tức là chủ đầu tư muốn có đất để làm dự án thì phải thỏa thuận với người sử dụng đất để được chuyển nhượng một cách sòng phẳng. Ai dám bảo người làm vườn làm ruộng không “vì lợi ích quốc gia, công cộng”? 

Còn nhớ, trước khi Quốc hội thông qua Luật Đất đai 2013, đã có một cuộc vận động lấy ý kiến với quy mô chưa từng thấy với gần 7 triệu ý kiến đóng góp vào dự Luật. Rất nhiều ý kiến, cả trong dân và tại diễn đàn Quốc Hội, đã đề nghị thu hẹp phạm vi Nhà nước thu hồi đất quy định tại điều luật này, nhưng Ban soạn thảo chỉ tiếp thu một cách hời hợt bằng cách đảo qua đảo lại chứ nhất định không chịu thu hẹp. Và điều lạ lùng là cuối năm vừa rồi, Bộ Tài nguyên và môi trường khi đưa ra thảo luận những đề xuất tiếp tục sửa đổi Luật Đất đai thì phạm vi Nhà nước thu hồi đất theo điều 62 này không những không được đề nghị thu hẹp mà còn đề nghị tiếp tục mở rộng.

Xin nói thẳng, không chỉ là đơn khiếu kiện chiếm 80%, mà điều 62 của Luật Đất đai đang vấy máu. Chúng ta đã nghe nhiều trường hợp người dân không chấp nhận rời khỏi ruộng vườn đã phản ứng bằng bạo lực với lực lượng cưỡng chế, máu của dân và máu của đồng bào làm nhiệm vụ cưỡng chế đều là máu của người vô tội. Nơi này nơi kia ở nông thôn đang bất ổn về chính trị, không phải do sự chi phối của các thế lực thù địch, mà do đất của dân bị Nhà nước thu hồi để giao cho các “đại gia”, tuy có thể đúng Luật nhưng trái đạo lý. Những đảng viên Cộng sản hãy nhớ rằng, Liên minh công nông là nền tảng chính trị của Đảng không chỉ ở nông thôn. Nền tảng chính trị đó mà bị phá vỡ thì Đảng không còn đất sống. 


Hoàng Hải Vân

.........../.

Hồi ức của Nguyễn Hữu Loan

Hồi ức của Nguyễn Hữu Loan (chuyện bố mẹ vợ bị hành quyết)

******


Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ?- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ ...
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.- Thầy ăn đi.Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:-Ngọt quá.Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn …
Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.

Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
nhà thơ HỮU LOAN

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông …
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.
Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

© Hữu Loan




..vì đâu nên nỗi?


Đất nước tanh bành, vì đâu nên nỗi?

***

Những ngày đầu năm, tỉnh dậy là nhớ đến quê hương, đất nước, dân tộc ta, nhân dân ta.
Càng ở xa, lại càng nhớ, da diết, thiết tha.
Đất nước ta, quê hương ta tài nguyên, gia tài tổ tiên cha ông để lại gồm có những gì, nay ra sao, rất cần được cháu con ngày nay điểm lại, đánh giá tỷ mỷ kỹ càng.

Hơn 20 vụ đại án đang được đưa ra xét xử cho thấy tiền của tài nguyên của đất nước đã được quản lý tùy tiện, vô trách nhiệm ra sao, khi hàng trăm ngàn tỷ đồng bị thất thoát một cách « nhẹ nhàng » trong một thời gian dài hàng chục năm, mà những người đứng đầu chính phủ, đứng đầu đảng, đứng đầu Nhà nước, đứng đầu Bộ Chính trị phải chịu trách nhiệm trước ai hết, nay mới đưa ra xét.

Xét cho cùng, những Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh… cũng chỉ là những tội phạm kiêm nạn nhân của một chế độ chính trị lạc hậu quá mức mà ông Tổng bí thư đến nay vẫn không nhận ra, khi ông quyết định khai trừ mọi đảng viên đòi xây dựng chế độ Tam quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) phân lập và xây dựng các tổ chức xã hội dân sự. Ông định sẽ còn sống với ai trên đất nước và trên thế giới này?

Nền độc lập là cấu thành đầu tiên của đất nước có chủ quyền, đã thu lại được từ tháng Ba, 1945 sau khi Nhật Bản hất cẳng thực dân Pháp qua đảo chính 9/3, tô đậm thêm qua « cướp chính quyền 19/8/1945 » và sau đó với chiến thắng Điện Biên Phủ, đến nay còn gì? Còn ít, ít lắm, khi chính quyền độc đảng vừa cam kết với chính quyền bành trướng Trung Quốc « cùng có chung một tương lai gắn bó keo sơn, núi liền núi, sông liền sông », lại còn cam kết hợp tác chặt chẽ « đào tạo cán bộ cao cấp các ngành, kể cả ngành quốc phòng và ngoại giao », cam kết hợp tác giữa 4 tỉnh biên giới Việt Nam với khu tự trị Choang tỉnh Quảng Tây / Trung quốc, cứ như trong một quốc gia thống nhất vậy! Vậy thì còn đâu là độc lập? Rõ ràng là mang chất Bắc thuộc rồi! Lời thề gìn giữ độc lập 2/9/1945 đã tan biến.
Độc lập kiểu gì mà từ Bắc chí Nam người Trung Quốc nhập cảnh đi về như trên đất nước họ, hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, hàng độc lan tràn mọi ngả, các công ty Tàu giành mọi gói thầu béo bở nhất về khai khoáng, nhiệt điện, thủy điện, hóa chất, giao thông cầu đường, trồng rừng, gang thép, phân bón, bô-xít, thủy sản, không thiếu một ngành nào, một nơi nào. Đây là thuộc địa kiểu mới hoàn chỉnh mẫu mực của bọn bành trướng. Có người Việt nào không phẫn nộ và không cảm thấy nhục?

Tài nguyên cơ bản đất nước là ruộng đồng, rừng, biển thì quyền sở hữu ruộng đất của tư nhân trong nông nghiệp từ ngàn đời bị đảng nghiểm nhiên tịch thu theo cái « quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước (của đảng) thay mặt quản lý » để nông thôn xơ xác, nông nghiệp lụn bại, nông dân thành tá điền nghèo khổ làm thuê cho đảng, đến mức em sinh viên luật Đỗ Thúy Hằng phải lên tiếng khóc cho một nền nông nghiệp bị đảng nhẫn tâm bức tử, với vô vàn nông dân bị các quan chức cộng sản cướp đất, bị trắng tay.
Tài nguyên rừng từ thời nguyên thủy vốn có hằng triệu héc ta, hằng trăm loại gỗ quý, hàng ngàn động vật chim muông quý hiếm, đã bị thu hẹp hơn 2/3 diện tích chỉ trong 70 năm cộng sản cầm quyền, thành địa bàn tàn phá chia chác của các quan chức kiểm lâm - chúa sơn lâm, bọn hải quan, công an - cảnh sát, hành chính địa phưong, xuất khẩu gỗ quý theo giá rẻ mạt, đua nhau làm các biệt thự biệt phủ lỗng lẫy kiểu của các vua chúa ngày xưa.
Cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh đau lòng than rằng:
Đất nước mình buồn quá phải không anh?
Rừng đã hết, và biển thì đang chết!
Cả đất Việt hướng mặt ra biển cả, đại dương, cá và muối nuôi sống dân tộc từ nghìn xưa, « cơm với cá như mạ với con », nay cá chết trắng khắp dọc bãi biển miền Trung, ô nhiễm lan rộng kéo dài do kẻ tội phạm Formosa đến từ đất Tàu, ngư dân bị ngăn chặn cấm đoán, tàn phá người và phương tiện làm nghề do tàu tuần dương từ đảo Hải Nam đổ xuống.
Cho đến cát là sản phẩm tự nhiên rẻ nhất cũng bị bán đổ bán tháo đi rất nhanh, bị Tàu cho tàu hút cát khổng lồ, một giờ hút trộm 600 ngàn tấn cát để phun lên các đảo nhân tạo ở biển Đông, số cát này mỗi chuyến có thể chất đầy một sân vận động. Sau « địa tặc » – cướp đất, « lâm tặc » - cướp rừng, « hải tặc » – cuớp biển, « ngân tặc » – cướp tiền bạc, « đạo tặc » - cướp của, nay đến « sa tặc » – cướp cát, chúng vơ vét không trừ một thứ gì?

Mang danh lãnh đạo chính trị, bảo vệ đất nước, đảng cộng sản đã bảo vệ được những gì?
Mang nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ, đất đai, thì người Trung Quốc thả sức thâm nhập ; chủ quyền quốc gia bị xem nhẹ dưới danh nghĩa hợp tác toàn diện cả về nội trị, quốc phòng, ngoại giao.
Mang nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên rừng biển, thì cho họ vào hợp tác trồng rừng, đánh cá, tự do khai thác cướp phá mọi thứ trên rừng, ven biển, dưới biển.
Lãnh đạo kinh tế là hướng dẫn chỉ đạo cuộc khởi nghiệp xây dựng kinh tế, phân chia thành quả phát triển cho công bằng, thu chi ngân sách hợp lý, không để rơi vãi thất thoát, thế nhưng thực tế tham nhũng lan tràn, ngân sách thất thoát hàng trăm nghìn tỷ đồng, khi xử tham nhũng không thu hồi nổi 5%, nợ quốc gia vượt quá Tài sản quốc gia PNB một năm, vậy là thất bại hoàn toàn về kinh tế. Tài chính thu không đủ chi, không đủ tiền trả lãi nợ quốc gia hằng năm, ngân hàng phá sản hàng loạt, hiệu quả lãnh đạo kinh tế tài chính hầu như là con số âm.

Lãnh đạo xã hội là xây dựng mối đoàn kết quốc gia keo sơn, cuộc sống dân chủ, tiến bộ, bình đẳng văn minh, nhưng họ nuốt lời hứa hòa giải hòa hợp dân tộc, họ cai trị miền Nam như cai trị kẻ thù theo kiểu ân oán tàn bạo ác độc nhất.
Nền giáo dục quốc gia cực kỳ lạc hậu, giáo điều, nhồi sọ cổ lỗ, bằng giả bằng dỏm tràn ngập, không một trường đại học Việt nào được xếp trong số 300 trường khá nhất ở châu Á.
Nền y tế suy đồi đi ngược với phương châm « thầy thuốc như mẹ hiền », theo kiểu tiền thầy bỏ túi, thuốc giả tràn lan, thầy thuốc giết bệnh nhân.
Xã hội đảo điên, người yêu nước chống bành trướng, bênh dân oan bị tuyên án nặng nề, trong khi các quan lớn có bồ nhí, có biệt phủ hàng vài chục tỷ đồng, tội rất nặng chỉ bị khiển trách như phủi bụi. Đạo đức lao dốc cùng cực, mất tính người, vợ chặt cổ chồng, ông và bố cưỡng hiếp cháu gái, con gái mới 5, 6 tuổi.

Lãnh đạo đất nước mà lại hèn với giặc, ác với dân. Vậy mà còn huênh hoang khuyên dân ta « không nên ngủ quên trên vòng nguyệt quế ». Chuyên nói phét, nói không biết ngượng, vòng nguyệt quế ai cho? Bắc Kinh à?
Có còn gì để mà « ngắm nhìn, rung đùi tự khen tự sướng đất nước ta chưa bao giờ đẹp như thế này! ». Khi ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên TƯ đứng trước mức án tử hình và tù chung thân, khi các đồng chí thù địch tìm cách hãm hại nhau, đuổi bắt nhau như những kẻ tử thù chỉ vì kèn cựa ngôi thứ và bổng lộc phi pháp.

Những người nông dân đang lên thành phố bán sức lao động tại Hà Nội. (Hình: Nguyễn Đình Hà)
Cả xã hội đều nhìn thấy trước năm 2018 vừa khởi đầu sẽ là năm các đồng chí cộng sản thù địch nhau sẽ làm thịt nhau không thương tiếc, không phải vì công bằng, vì lý tưởng gì cao siêu mà chỉ vì chức quyền, chiếc ghế quyền lực cùng những lợi ích vật chất phù phiếm nó mang lại.

Đảng cộng sản đến cuối năm 2017 và vào đầu năm 2018 đã lộ nguyên hình là kẻ đã tàn phá có hệ thống, tận gốc, tanh bành cuộc sống tinh thần và vật chất của xã hội ta, từ hạ tầng cơ sở - hiến pháp, pháp quyền đến thượng tầng kiến trúc – đạo đức xã hội của đất nước ta.

Nhìn lại thảm cảnh đất nước mà căm giận, mà tủi nhục dâng tràn. Đảng Cộng sản cứ như có một cơn đại hồng thủy bão quét Tsusami vừa đi qua tàn phá triệt để mọi giá trị vốn có, cứ như có một đạo quân ô hợp giặc ngoại xâm cùng giặc nội xâm hung hãn nhất trong lịch sử vừa tràn qua từ Bắc chí Nam, san bằng đất nước tươi đẹp từ ngàn xưa bỗng trở thành đất nước lụi tàn tan hoang và hấp hối.
Vì ai nên nỗi? vì đâu có cảnh đất nước điêu tàn? Bi đát hơn thời phong kiến. Lạc hậu hơn thời thực dân. Cực nhục đau đớn hơn thời chiến tranh quyết liệt.
[...]
--------
Bùi Tín
Nhà báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài VOA. Ðối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.

 ........./.

Chuyện từ rạp hát 'Thầy Năm Tú'



Chuyện từ rạp hát 'Thầy Năm Tú'

Vương Tâm

****


Một chiều cuối năm, tôi tình cờ có mặt trong cuộc thi ảo thuật các tỉnh phía Nam (2017), tại rạp hát “Thầy Năm Tú”. Đây là một rạp hát cải lương cổ nhất ở Tiền Giang, nằm trên đường Lý Công Uẩn, gần chợ Mỹ Tho. Xưa mặt tiền của rạp có hình cánh màn nhung điệu đà sắc màu cải lương. Nay được sửa lại vuông vức hiện đại, nhưng bên trong diện tích rạp hát vẫn vậy, rộng rãi và khang trang như thuở nào…



Thầy Năm Tú chơi cải lương

Rạp hát “Thầy Năm Tú” được ghi dấu một cái mốc khởi phát và thời kỳ huy hoàng của xứ sở gái đẹp Mỹ Tho. Đồng thời đây cũng là nơi khẳng định cái nôi sân khấu cải lương của lục tỉnh Nam Kỳ. Vở cải lương đầu tiên của Việt Nam được diễn ra tại đây, vào năm ngày 15-3- 1918. Đó là vở Kim Vân Kiều, do ông thầy Năm Tú (Châu Văn Tú) thuê viết, chỉ huy dàn dựng và tổ chức ra mắt đúng vào ngày sinh nhật của mình. Câu chuyện, tôi được bà Trần Kim Liên, giảng viên trường Đại Học Tiền Giang kể cho nghe. Tôi như bị cuốn hút theo dòng lịch sử của những làn điệu cải lương và mọi diễn biến xảy ra chung quanh rạp hát “Thầy Năm Tú”…
Trước hết vì sao ông bầu gánh hát đặt tên là “Thầy Năm Tú”? Đúng là câu chuyện ngông, chơi sang của một công tử nhà giầu, say mê đờn ca tài tử của miệt vườn sông nước. Trước đó, Châu Văn Tú bỏ tiền xây rạp chiếu bóng để kinh doan bên cạnh chợ Mỹ Tho. Sau đó mươi năm, Châu Văn Tú mua luôn cả một gánh hát có tiếng lúc đó, ghép lại cùng với những nghệ sĩ tài tử, giang hồ quen biết ở trong tỉnh được mời về , tạo nên lực lượng khá hùng hậu. Ông là người đầu tiên có sáng kiến đưa những làn điệu của đờn ca tài tử (hát lẻ) vào những tích cổ, viết thành chuyện để hát và diễn trên sân khấu. Vì thế, ông mới thuê nhà nho có tiếng ngày đó là Trương Duy Toản viết kịch bản “Kim Vân Kiều”, để thử nghiệm trò chơi của mình. Tư duy nghệ thuật cải lương ấy đã tạo nên những nghệ sĩ chuyên nghiệp hơn, không chỉ dừng lại ở những bản hát đơn lẻ, cùng với động tác minh họa nghèo nàn. Và chữ “cải lương” đã được ông bầu Tú dùng đầu tiên với vở Kim Vân Kiều, mang ý nghĩa cải cách và nâng cao nghệ thuật đờn ca tài tử. Sau này còn có gánh hát đã treo hai câu đối bên rạp rằng: “Cải cách hát ca theo tiến bộ. Lương truyền tuồng tích sánh văn minh”, như khẳng định thêm ý tưởng mới lạ của thầy Năm Tú.
Sáng kiến tiếp theo là cách đặt tên nghệ sĩ theo thứ bậc tuổi tác và tài năng. Trong tay ông Châu Văn Tú có một đội ngũ nghệ sĩ tài hoa và có giọng hát cuốn hút lòng người. Ông  lấy đúng quy củ của nếp sống trong giang hồ mà đặt tên như Tám Danh, Ba Du, Năm phỉ, Tư Sang… Còn với chức danh vừa là chủ vừa là tổ chức dàn dựng, ông tự đặt tên cho mình là thầy “Năm Tú”. Vợ ông cũng được gọi tên là Tám Hảo. Lập tức trước khi công bố vở cải lương đầu tiên, ông cũng đổi tên rạp chiếu bóng của mình thành “Rạp hát Thầy Năm Tú”. Riêng có những trường hợp đặc cách như nghệ sĩ Phùng Há (tên chính là Trương Phụng Hảo), người đóng vai Kiều, vì còn nhỏ tuổi nên vẫn được giữ nghệ danh của mình. Sau này cho dù đã nổi tiếng và đủ lông đủ cánh tự bay xa, các nghệ sĩ vẫn lấy những danh hiệu của Thầy Năm Tú đặt cho mình đi diễn khắp nơi.


Độc chiêu của thầy Năm Tú

Nhà giáo Kim Liên cho biết thêm, thầy Năm Tú không chỉ tổ chức biểu diễn tại rạp mà còn nghĩ ra ngón kinh doanh, thu những vở cải lương vào đĩa hát, bán cho công chúng. Cùng với đó, chiêu tiếp thị của ông cũng khác đời. Các đào kép hát hay diễn giỏi phải ăn mặc thật đẹp đi chơi chợ, hay ra vườn hoa cho mọi người chiêm ngưỡng, trò chuyện. Quả nhiên người đến xếp hàng mua vé rồng rắn quanh hông chợ Mỹ Tho như đi hội vậy. Riêng đĩa hát thu vở diễn, ông cho in thêm hình con gà trống đỏ, một biểu tượng báo hiệu sự mới lạ cho nghệ thuật.
Sau đó, thầy Năm Tú còn nghĩ kế sách quảng bá sâu rộng hơn, khi cho sản xuất những đĩa ca nhạc, gồm những bài lẻ và gồm cả tiếng Hoa, tiếng Việt. Ông nghĩ sâu sa, gốc tích khởi dựng miền đất Mỹ Tho, có sự đóng góp lớn của dòng tộc người Hoa ban đầu đến đây. Họ là lượng khách hàng rất lớn trong cộng đồng người Việt. Cách chào hàng ấy đem lại món lời lớn cho gánh hát.

Thật là thiên thời địa lợi. Thời ấy, dân chúng các tỉnh đi xa hay thương lái các tỉnh quanh vùng muốn lên Sài Gòn, đều phải qua Mỹ Tho đi xe lửa chở hàng đi bán. Mỗi khi khách dừng chân chờ tầu đều rủ nhau đến rạp thầy Năm Tú xem cải lương, giải trí đến tận khuya.

Nhưng đâu đã hết, thầy Năm Tú còn thuê sản xuất cả máy quay đĩa đem bán để cho người nghe cho có đủ bộ. Để phân biệt với hàng Pháp, thầy Năm Tú cho in hình con chó trên máy đĩa hát của mình, với chất lượng không hề thua kém. Đồng thời nhờ có những đĩa thu giọng hát đê mê lòng người của cô đào Tư Sang và Năm Cần Thơ mà hãng đĩa thầy Năm Tú bán đắt như tôm tươi. Tiếng nổi như cồn, từ đó có hiện tượng những người buôn bán làm ăn ở Mỹ Tho, đều mua máy hát và đĩa hát của đoàn cải lương thầy Năm Tú làm quà biếu, thể hiện chất “cải lương” văn hóa doanh nhân của mình.

Thương hiệu đĩa hát thầy Năm Tú nổi tiếng khắp ba miền Trung-Nam-Bắc. Lại còn có cả chuyện, người Sài Gòn còn lấy thầy Năm Tú làm cái mốc định danh để trò chuyện, như họ thường nói: “Cái nón này sắm từ thời thầy Năm Tú hẳn ta?”, hoặc đôi khi hài hước chê bai: “Sao nó quay chậm như đĩa hát thầy Năm Tú cải lương vậy?”…

Cũng chính xuất phát từ cuộc chơi cải lương của thầy Năm Tú, mà đất Mỹ Tho, Tiền Giang xuất hiện nhiều nghệ sĩ tài năng. Tính cho đến nay, số nghệ sĩ của tỉnh vinh dự được nhận danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) của Nhà nước trao, đạt con số kỷ lục tới 8 người. Có thể kể ra những cái tên lừng danh ấy như: Ba Du, Bảy Nam, Trần Hữu Trang, Phùng Há, Dương Ngọc Thạch, Kim Cương, Trần Ngọc Giầu... Hầu hết trong số họ đều là nghệ sĩ cải lương, và đều là những người được chắp cánh từ rạp hát “Thầy Năm Tú”, từ năm 1918. Tính đến nay, tròn 100 năm, có người còn người mất nhưng đã để lại dấu ấn kiệt xuất không bao giờ phai mờ trong lòng khán giả say mê sân khấu cải lương. 

Trong số đó, Nghệ sĩ Trần Hữu Trang (sinh năm 1906), là một trong những người xuất sắc nhất. Ông đầu tiên chỉ là một anh thợ cắt tóc ở phố huyện, nhưng vẫn say mê đờn ca tài tử với các gánh hát. Ông có năng khiếu viết ra những bản ca, với những lời mới để mọi người cùng hát. Sau đó, Trần Hữu Trang vào đoàn hát Phụng Hảo do nghệ sĩ Phùng Há thành lập, với vai trò thư ký và biên kịch để dễ bề hoạt động cách mạng.

Do có tài đàn hát và năng khiếu sáng tạo đặc biệt, chỉ một thời gian ngắn, Trần Hữu Trang đã viết xong vở cải lương đầu tiên cho đoàn. Đó là vở “Lửa đỏ lòng son” (1928), sau đó là vở “Tâm hồn nghệ sĩ”, với chất tả thực xã hội làm lay động lòng người. Nhưng có lẽ bắt đầu từ vở Tô Ánh Nguyệt (1934), tiếng tăm của Trần Hữu Trang nổi lên như một tài năng trẻ đầy triền vọng. Liên tiếp mấy năm sau đó là các vở “Lan và Điệp”(1936) và “Đời cô Lựu” (1937), Trần Hữu Trang được đánh giá là tác giả lớn trên sân khấu cải lương.  

Năm 1960, Trần Hữu Trang lên chiến khu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Ông vừa làm công tác chỉ đạo phong trào, vừa sáng tác kịch bản gửi về các đoàn biểu diễn, phục vụ đồng bào và chiến sĩ giải phóng.

Thật không may Trần Hữu Trang bị trúng bom trong một đợt máy bay mỹ oanh tạc vào Trung ương Cục miền Nam, tại biên giới Việt Miên (năm 1966).

Ông hy sinh như một anh hùng, để lại 30 vở cải lương có giá trị. Với bộ ba kịch bản hiện thực ở đỉnh cao: “Tô Ánh Nguyệt”, “Lan và Điệp” và “Đời cô Lựu” đã trở thành những vở cải lương mẫu mực, kinh điển có sức sống lâu bền, tạo đất diễn và sáng tạo cho các nghệ sĩ. Và đó cũng chính là dấu ấn sâu đậm, kỷ niệm cho sự phát triển và những bước thăng trầm của nghệ thuật cải lương, trong suốt 100 năm qua.  


Vương Tâm

......./.

PHỤ NỮ RÂU

PHỤ NỮ RÂU

( mời xem bài viết có lẽ là bài cuối cùng của Bình Nguyên Lộc ngày 4/3/1987; sau đó ba ngày 7/3/1987 ông tạ thế.)
***







[https://www.facebook.com/minhnx]


Trước hết xin nói sơ qua về thượng cổ của nước Nhật Bổn. Các nhà khảo cổ Tây phương dã tìm thấy dấu vết di cư của dân tộc Nhựt, cách đây năm ngàn năm. Họ từ Trung Á di cư tới các nơi mà ngày nay !à nước Nhựt. Họ không di cư một minh mà cùng đi với dân Triều Tiên và dân Việt Nam.
Tới Nhựt họ không gặp phải đất hoang vu mà gặp một thứ dân kia đã làm chủ đất ở đó. Dân này da trắng nhưng bé người, bé hơn cả những người Nhựt nhỏ bé nữa, mà họ gọi là Ainu, hoặc Ainô. Có lẽ đó là danh tự xưng của dân đó, nên chính người Nhựt cũng chẳng biết Ainu có nghĩa là gì. Trong sách vở, người Nhựt trỏ dân đó bằng hai tiếng Tàu “Hà Di” có nghĩa là Rợ Hà, nhưng Hà là gì thì họ cũng chẳng biết.
Người Nhựt đánh giết dân Ainu để cướp đất, cuộc chiến tranh kéo dài cho đến thế kỷ thứ 19 mới thôi. Đó là một thứ nội chiến nho nhỏ, nên thế giới không hay biết. Mỗi năm Nhựt chỉ đánh một trận xoàng xoàng để giựt vài chục mẫu đất rừng, còn dân Ainu thì cứ lùi chớ không đủ sức phản công, nên tình trạng chiến tranh, xem như là không có, trong xã hội Nhựt.
Ngày nay các nhà chủng tộc học, cho rằng dân Ainu không phải chỉ là một dân tộc, mà thuộc vào một chủng tộc lớn, trong nhóm mấy mươi chủng da trắng, và hồi thượng cổ, họ làm chủ trọn nước Tàu, chứ không phải riêng gì ở Nhựt mà thôi. Chủng nầy đã bị diệt , trước đó rất lâu, tại Trung quốc, còn tại Nhựt thì họ bị diệt chủng kể từ ngày họ di cư tới đảo Phù Tang.
Hiện nay thì họ lùi về một hòn đảo rất lớn của nước Nhựt, đảo Bắc Hải Đạo (Hokkaido), và được để yên, không còn chiến tranh nữa, và người Ainu chỉ còn sống sót có vài vạn người, tất cả đều rút lên núi cao của đảo đó. Khí hậu của đảo nầy lạnh như Bắc Canada, nên người Nhựt cũng chưa lập nghiệp đông đảo ở đó.
Sự kiện mà chúng ta cần biết là toàn thể phụ nữ Ainu đều có râu. Họ rất hãnh diện mà có râu, chớ không bận tâm về việc nhổ râu, cạo râu, hay dấu râu bằng cách này hay cách khác.
Phụ nữ Ainu đã được các nhà bác học Nhựt nghiên cứu. Số lượng Oóc Môn nam nơi họ cũng bình thường như nơi phụ nữ các dân tộc khác. Hóa ra, sự kiện mọc râu nơi phụ nữ Ainu trở thành bí mật y học cho giới y khoa quốc tế. Sự mọc râu không còn là hậu quả, không còn là tình trạng lạm phát Oóc Môn nam nữa mà còn do một hay vài nguyên nhân khác mà y học chưa khám phá ra được.
Về tính tình bên ngoài thì phụ nữ Ainu cũng chẳng khác bao nhiêu các phụ nữ trên quả địa cầu, nghĩa là họ vẫn sống bình thường như bất kỳ người phụ nữ nào khác trong xã hội. Có một số phụ nữ Ainu làm chiến sĩ thật đó, nhưng chẳng qua chỉ là chuyện bất đắc dĩ thôi. Họ bị thiểu số trước người Nhựt, mà phải đánh nhau mãi với người Nhựt, hóa ra « Giặc tới nhà, đàn bà phải đánh'', chỉ có thế thôi chớ họ không có hiếu động, hiếu chiến gì hết. Họ cam phận làm đàn bà, lấy chồng , đẻ con, nuôi con, chẳng khác gì phụ nữ trong các cộng đồng xã hội khác.
Dĩ nhiên cũng có ngoại lệ, vì không có luật nào mà chẳng có ngoại lệ hết, nghĩa là cũng có một thiểu số nhỏ phụ nữ Ainu không có râu. Những cô không có râu bị mặc cảm dữ lắm, và họ xóa bỏ '' khuyết điểm'' bằng cách xâm râu lên môi mép bằng mũi kim rồi nhuộm chàm lên đó, y như ngày nay phụ. nữ Âu Mỹ xâm chân mày. Hạng không râu, không tài giỏi, cũng không kém cỏi hơn hạng có râụ, thế nghĩa là râu không là hậu quả của sức khỏe tốt, hay xấu, cũng không phải là dấu hiệu của tài năng cao hay thấp ! Khoa học hoàn toàn bí về râu của phụ nữ Ainu. Nhưng khoa học có tự hỏi dân Nhựt có lai giống với dân Ainu hay không ? Khoa học, tức những nhà khoa học Nhựt, chớ dân Nhựt thì không bao giờ tự hỏi như vậy. Họ xem Ainu là mọi rợ, tự ái dân tộc ngăn họ tự hỏi điều đó.
Người ta thấy rằng người Nhựt, nhứt là phái nữ có ba điểm hơi lạ. Da rất trắng , y như người Ainu. Họ lại có bộ giò rất ngắn, cũng như người Ainu. Điểm thứ ba nữa là phụ nữ Nhựt xưa kia có ngôn ngữ riêng, khác với ngôn ngữ của nam phái Nhựt. Nếu có lai giống thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, trong những đoàn di cư lớn và đi xa, luôn luôn thiếu đàn bà. Đến nơi định cư mới, họ thường kết hôn với phụ nữ bản xứ.
Dân ta cũng thế, hiện nay trên núi rừng, người ta vẫn còn bắt gặp một thứ nguời Việt Nam cổ, sống chung với phụ nữ thuộc chủng khác, chủng Mê-La-Nê da đen, bé nhỏ hơn dân ta. Trong xã hội nguời Mường, phụ nữ cũng thuộc chủng khác, trong khi đó thì đàn ông Mường mang cơ thể tính Việt Nam. Và sự lai giống ấy nếu có, đã thay đổi hẳn tình trạng râu ria vì không có phụ nữ Nhựt nào có râu hết.
Riêng tôi, không phải là một nhà khoa học, tôi vẫn có nghĩ đến một sự kiện, mà nói ra có vẻ hơi lạ kỳ, nhưng tôi cứ xin nói. Xin nhắc rằng trên quả địa cầu nầy chỉ có bốn nơi là cây nhân sâm mọc được một cách tự nhiên không cần trồng mà thôi. Đó là Triều Tiên,Nhựt Bản, Cực Bắc Hoa Bắc và Hoa Kỳ. Nhưng ngày nay thì vì lý do khẩn hoang canh tác, nên ở Nhựt, ở Hoa Bắc, ở Bắc Hoa Kỳ không còn cây nhân sâm nữa. Hoa Kỳ có thử trồng, trồng có kết quả, nhưng họ chỉ (thiếu ?)
Các nước văn minh họ phân chất đủ thứ hết, bạ gì cũng phân chất, ta cứ ngỡ là họ làm chuyện tầm ruồng, vì lợi ích không thu được ngay, cho nên ta không thấy, còn họ thì thấy được, nên họ phân chất lung tung, chẳng có món nào thoát khỏi họ hết.
Cách đây già nửa thế kỷ, các nhà khoa học Nhựt Bổn âm thầm làm một cuộc phân chất mà chẳng hề ai nghĩ đến cả. Họ phân chất Cao Ly sâm của Triều Tiên. Kết quả được họ công bố trên các tạp chí khoa học : Củ sâm có chứa một chất hữu dụng là chất Oóc Môn dương, còn tất cả các chất khác đều hoàn toàn vô dụng. Thuở ấy y học quốc tế đã biết vai trò quan trọng của chất Oóc Môn dương rồi. Chất nầy do cơ thể của con người sản xuất ra một cách tự nhiên. Nếu cơ thể sản xuất không được thì người đàn ông sẽ bị liệt dương hoàn toàn, bằng như cơ thể sản xuất kém đi thì họ chỉ bị suy dương mà thôi. Sau đó không lâu, y học thế giới lại biết thêm một đặc tính của Oóc Môn dương nữa là nó có thể chữa bịnh rối loạn kinh kỳ cho đàn bà, nhưng bất tiện là nếu cho chất đó vào cơ thể thì đàn bà có thể mọc râu.
Sự công bố kết quả phân chất chưa giúp ích y học được, vào thời đó, vì y học chưa chế ra được một cách nhân tạo chất Oóc Môn. Thế nên loài người cũng cứ tiếp tục dùng Cao Ly sâm như thường, chỉ có khác là Đông Y không biết đặc tính thứ nhì của Cao Ly Sâm là trị chứng rối loạn kinh kỳ của phụ nữ. Nhưng sau đó, ngành hoá học Âu Mỹ chế tạo được chất Oóc Môn, rồi thì có biến cố lớn trên thị trường Sâm Cao Ly. Một ống Oóc Môn, giá ở các nhà thuốc tây tại Sàigon năm 1965, nhớ đâu như là chỉ có hai đồng bạc Việt Nam thôi. Trong khi đó, muốn cho vào cơ thể số lượng Oóc Môn ấy bằng Cao Ly Sâm, phải dùng đến cả nửa kí lô sâm mới đủ, mà nửa kí lô sâm thì giá đến cả bạc ngàn.
Nước Tnều Tiên đã bị thiệt hại nặng, mà không do Nhựt Bổn phá bao giờ, vì thuở Nhựt phân chất, họ chỉ phân chất chơi vậy thôi, chứ đâu có ai biết chế Oóc Môn nhân tạo. Sự thiệt hại chỉ xảy ra mấy mươi năm sau, nhưng không thiệt hại hoàn toàn vì các cụ già không thạo tin khoa học, vẫn còn uống sâm như cũ. Các cụ cho là bổ khỏe lắm vì chất Oóc Môn là kích thích tố, các cụ uống vào, được tráng dương, mà hễ tráng dương thì nghe thơi thới, vui vẻ, yêu đời, các cụ cứ tưởng đó là bổ, chớ thật ra nó chỉ kích thích các chức năng khác mà thôi, thí dụ ăn, các cụ thấy ăn ngon hơn trước, chớ đâu có bổ như mấy thứ vitamin và các thứ muốị kim loại.
Tôi tự hỏi phải chăng thời thượng cổ dân Ainu, chủ đất xưa của nước Nhựt, đã ăn quá nhiều củ sâm? Vâng, các cổ dân sống bằng hái lượm trước khi biết săn và câu. Họ kiếm trái rừng và đào củ rừng để ăn. Mãi cho đến ngày nay mà tôi còn thấy người Việt Nam, thỉnh thoảng ăn củ nho và củ nần trong rừng. Ăn củ sâm là tiêu thụ Oóc Môn nam rồi vậy. Đàn ông ăn thì không sao, họ chỉ tráng dương thôi, nhưng đàn bà ăn, mà ăn trong hàng ngàn năm thì mọc râu là sự kiện không thể tránh . Trên đây chỉ là giả thuyết. Giả thuyết đó vấp phải một chướng ngại sau đây. Người ta sẽ hỏi ngày nay ở Nhựt không còn sâm nữa, dân Ainu đã biết làm ruộng, biết ăn cơm, thì sao phụ nữ của họ cứ vẫn tiếp tục mọc râu ? Vậy kẻ thường dân viết bài nầy xin mời các nhà khoa học giải thích thêm vụ râu ria của phụ nữ Ainu, và xin nói lạc đề vài mươi dòng chữ.
Con đường hầm dài nhứt thế giới là con đường hầm Seikan ờ Nhựt Bổn. Đó là loại đường hầm đào ở dưới dạ của đáy biển (Tunnel undersea), khó đào hơn đường hầm xuyên núi dành cho xe lửa. Đường hầm Seikan dài 33 dặm Anh, tức dài gần gấp đôi con đường hầm xuyên qua biển Manche, nối liền hai nước Pháp và Anh. Seikan được khởi công từ sau trận thế chiến thứ hai (sau 1945) và dự trù sẽ hoàn thành vào năm 1983. Nhưng rồi không còn nghe nói đến con đường hầm ấy nữa, có lẽ người viết bài nầy có một lúc không theo dõi tin tức thế giới được. Nhưng nếu công việc có bị đình trệ, chắc chỉ đình trệ vài năm thôi, và dù sao nó cũng thành hình trước con đường hầm biển Manche mà Pháp và Anh cứ nói đến mãi từ già nửa thế kỷ nay, mà chưa có gì đáng kể (1). Đường hầm Seikan nối liền hai đảo Bổn Châu (Honshu) và Bắc Hải Đảo (Hokkaidọ). Đảo Bổn Châu là đảo lớn nhứt của nước Nhựt và là Trung tâm văn hóa của dân tộc Phù Tang từ hai ngàn năm nay. Đảo Bắc Hải Đảo là đảo thứ nhì của nước Nhựt, nhưng hiện nay phần lớn vẫn còn là một hoang đảo mà người Nhựt còn đang thám hiểm.
Hà Di bị đẩy lùi lên Bắc Hải Đảo rồi thì Nhựt lại đuổi theo, nhưng lần nầy thì không còn chiến tranh tàn sát. Người Nhựt chỉ cai trị lỏng lẻo vì bận kiến thiết xứ sở theo lối mới nên để yên Hà Di, vả lạị họ chỉ sống sót có vài vạn người,chẳng cần mạnh tay với họ như hồi cổ thời. Nhựt biết đảo ấy có nhiều khoáng sản, nên quyết tâm khai thác vùng đất ấy. Đó là lý do hối thúc họ thiết lập đuờng hầm nầy. Hà, trong Hà Di là tiếng Tàu mà Nhựt mượn để tạm phiên âm danh Ai của họ, dùng để trỏ Rợ đó. Họ gọi dân đó là Ainu hoặc Ainô. Ainô được viết dình và đọc dình (2), nhưng thực ra đó là danh từ ghép gồm Ai+Nô. Nô có nghĩa là cánh đồng hoang, đồng gốc với chữ Nội của Việt Nam, và người Nhựt thường viết ra chữ Tàu là Dã, và Nô được nới rộng nghĩa để diễn ý niệm dã man, hoang dại. Còn Ai là gì chính người Nhựt cũng không còn biết, họ chỉ còn nhớ nghĩa của một danh từ Ai độc nhất có nghĩa là Cái đèo mà thôi. Động từ Ai của họ chỉ là Ái của Tàu, chớ không phải là tiếng Nhựt, thí dụ Aiin là Ái ẩm, dùng để trỏ bợm rượu, Aijin là Ái nhân, có nghĩa là tình nhân v.v.

(1).- Ðường hầm biển Manche đã khánh thành ngày 06.05.1994, dài 49,7 km, nằm 37 km dưới biển Manche giữa Coquelles (Pháp) và Folkestone (Anh).
(2).- “dinh”, hay “đinh”, hay “dình”? Chữ in bỏ dấu bằng tay không rõ.


BÌNH-NGUYÊN LỘC


THẰNG MÕ (Số đặc biệt về Bình-nguyên Lộc vừa qua đời)
Số 257, ngày 21.03.1987, San Jose, Bắc Cali

........../.

MISSION IMPOSSIBLE!




MISSION IMPOSSIBLE!

*****

Một nghiên cứu về tội phạm kinh tế tại Bắc Việt thời chiến tranh (*) cho biết, tình trạng tham nhũng của cán bộ lẫn quân đội từng là vấn đề được xem là sống còn. Một báo cáo cho thấy, những năm 1960, “tham nhũng là vấn đề xã hội nghiêm trọng nhất Bắc Việt và đa số cán bộ đều nhận hối lộ”. Đáng chú ý là nhiều con cái cán bộ đã dính vào các vụ trộm cắp. “Có 1.500 thiếu niên móc túi ở Hà Nội. Hầu hết là con cán bộ, thậm chí cán bộ cấp cao. Những thiếu niên này liên quan 30-40% các loại tội hình sự như tội phạm chuyên nghiệp”…
Con cái cán bộ bây giờ không chỉ móc túi ngoài phố và tham nhũng ngày nay không phải hối lộ vặt. Một ghi nhận chi tiết (GAN Business Anti-Corruption Portal, 9-2017) – tổng hợp từ báo cáo World Bank, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, Minh bạch Quốc tế, Diễn đàn Kinh tế Thế giới… - đã cung cấp một bức tranh ảm đạm về tham nhũng Việt Nam. Tham nhũng mọi nơi, mọi lĩnh vực, mọi ban ngành, mọi tổ chức…
Các định chế kiểm soát trật tự xã hội và luật pháp lại là nơi xảy ra tham nhũng đặc biệt tồi tệ. Trừ các bản án chính trị và tội phạm kinh tế quốc gia, gần như chẳng có án hình sự nào là không thể “chạy”.
Cảnh sát là thành phần ăn hối lộ trơ tráo nhất. Cảnh sát không chỉ “ăn dân”. Cảnh sát “ăn thịt” cả “đồng loại” cảnh sát. Trước khi có thể chạy ra đường “kiếm ăn”, người ta phải “chạy” để trở thành cảnh sát công lộ.
Dịch vụ công cũng là nơi mà hoạt động hối lộ-tham nhũng nhộn nhịp. Các hồ sơ hợp thức hóa nhà đất, kiện cáo tranh chấp đất đai, xin giấy phép thành lập công ty, giấy phép xây dựng… đều không thể được giải quyết nhanh hoặc thậm chí không bao giờ được giải quyết nếu không hối lộ. Tương tự cảnh sát, hải quan và nhân viên thuế cũng là những kẻ ăn bẩn nhất. Rất nhiều doanh nghiệp thậm chí đưa phần hối lộ vào “chi phí sản xuất” như là phần không thể thiếu trong quá trình kinh doanh dịch vụ hoặc sản xuất.
Báo cáo PCI 2016 (**) công bố tháng 3-2017 cho biết, có đến 66% công ty phải hối lộ cho quan chức địa phương. Khoảng 9-11% doanh nghiệp tham gia cuộc điều tra PCI từ 2014-2016 cho biết, tiền đấm mõm cho bọn “thối móng tay” chiếm đến hơn 10% tổng doanh thu!
Cũng theo PCI 2016, trong 1.550 công ty có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI), có gần phân nửa (49%) phải trả “phí” khi làm thủ tục thông quan; 25% nói rằng họ phải dúi phong bì để có giấy phép đầu tư và 13,6% phải trả tiền “hoa hồng” khi làm làm hồ sơ giành thầu nhà nước.
Một sự mỉa mai là chính các cơ quan liên quan thanh tra lại là những nơi ăn kinh khủng nhất. Theo PCI, năm 2016, gần ½ doanh nghiệp phải hối lộ khi có đoàn thanh tra đến “làm việc”…
Đứng thứ 113/176 quốc gia trong bảng chỉ số tham nhũng mới nhất do tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng, tham nhũng ở VN không còn là hiện tượng.
Nó không phải là vấn đề cá nhân mà là vấn đề tổ chức.
Nó không phải là vấn đề Đinh La Thăng mà là vấn đề cơ cấu tổ chức của hệ thống cai trị, giúp tạo điều kiện đẻ ra những Đinh La Thăng.
Tham nhũng cũng chẳng là những câu chuyện hối lộ mờ ám. Nó lộ mặt công khai, ở những tên buôn chổi đót, ở những gương mặt có tên có tuổi cụ thể - như Hoàng Thế Liên, khi còn là thứ trưởng Bộ tư pháp, đã bị trộm đột nhập vào phòng làm việc tại trụ sở Bộ, lấy đi khoảng 245 triệu đồng cùng 2.000 USD; như giám đốc Sở tài chính Kon Tum Đặng Xuân Thọ bị trộm 65 lượng vàng; như giám đốc Sở tài nguyên-môi trường TPHCM Đào Anh Kiệt bị trộm 1 tỷ đồng và hơn 30.000 USD ngay tại phòng làm việc, số tiền mà Kiệt nói rằng đương sự “tích cóp được trong suốt 37 năm làm việc” chứ không phải là tiền hối lộ trong một tháng hay vài tháng mà đương sự còn để ở văn phòng chưa kịp mang về nhà.
Những vụ tương tự được tường thuật giới hạn trong “phạm vi” hình sự mà chẳng bao giờ được mở rộng điều tra dưới góc độ tham nhũng. Có những vụ việc mà mức độ “thách thức” sự kiên nhẫn của người dân rất cao, như trường hợp Trương Công Chiến. Chỉ là một tên “quan” thuộc loại “vớ vẩn” (Đội trưởng đội Đăng ký trước bạ thuộc Chi cục Thuế quận Bình Tân), Chiến đã bị trộm “12 sổ tiết kiệm trị giá 5 tỷ đồng, 6.000 USD, 10 lượng vàng SJC, một bộ nữ trang trị giá 10 lượng vàng 24k, hai bông tai hột xoàn, một nhẫn kim cương”! Thanh tra chống tham nhũng đâu? Sao không “vào cuộc”?
Không bao giờ có thể chống tham nhũng nếu không có minh bạch. Tháng 10-2017, Ban bí thư (trung ương) ban hành “hướng dẫn khung về các nội dung phải công khai để nhân dân biết”, bao gồm: “Công khai 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; 19 điều quy định đảng viên không được làm…”.
Cái quái quỷ “27 biểu hiện suy thoái” gì là chuyện nội bộ đảng có lẽ không cần “công khai để nhân dân biết”.
Có những điều nhân dân muốn biết nhưng chưa bao giờ có thể biết rõ ràng: tháng 9-20117, Phó tổng thanh tra Chính phủ Đặng Công Huẩn cho biết, “năm 2016 có 1.113.422 người kê khai tài sản, 77 người được xác minh, 3 trường hợp thiếu trung thực, trong đó có cả cán bộ cao cấp”. Tại sao có hơn 1,1 triệu người kê khai tài sản mà chỉ 77 người được xác minh? Ba trường hợp “thiếu trung thực” là ai? Trong số hơn 1,1 người kê khai tài sản, có Nguyễn Phú Trọng không? Có vô số điều nhân dân muốn biết nhưng không thể biết, chẳng hạn trường hợp em chồng của Kim Tiến dính vào vụ tham nhũng VN Pharma được “xử lý” thế nào rồi?
Chẳng bao giờ có thể chống tham nhũng thành công nếu báo chí không được phép tự do điều tra. Cho đến thời điểm này, VN chưa hề có cái gọi là “phóng viên điều tra”. Báo chí chỉ tường thuật theo hồ sơ được mớm sẵn.
Không thể chống tham nhũng nếu xử lý những trường hợp cá nhân mà không thay đổi hệ thống tổ chức. Và quan trọng nhất, thay đổi cả Hiến pháp, trong đó có vấn đề quản lý và sở hữu đất đai-tài nguyên.
“Cuộc chiến” của Nguyễn Phú Trọng là nỗ lực tàn hơi để vực dậy niềm tin cho một cái đảng tàn hơi. Người dân trông chờ một sự kiến thiết quốc gia của một nhà nước minh bạch chứ không chỉ là cuộc chỉnh đốn nội bộ đảng mà từ thập niên 1960 “đảng” đã nhìn thấy những “hạn chế” khiến đảng bị lợi dụng như thế nào.
Một bài viết của tác giả Phạm Hưng Quốc đăng trên trang Viet-Studies (3-1-2018) gọi Nguyễn Phú Trọng là “hề cung đình”. Cách gọi này có phần thái quá. Trọng không đang múa may quay cuồng để làm trò cười thiên hạ. Trọng đang rất quyết liệt và chơi đến cùng.
Có lẽ hình ảnh gần hơn với Trọng là một ông già đang cố vá săm lốp cho chiếc xe đạp Phượng Hoàng thập niên 1960. Ông không muốn sắm xe mới. Ông thích chiếc xe cũ, có nguồn gốc sản xuất ở Trung Quốc. Trên chiếc xe cọc cạch ấy, ông muốn dẫn dắt đất nước đi trên con đường mà chính ông cũng không biết nó dẫn đến đâu. Bất luận thế giới đang tiến nhanh như thế nào, Trọng vẫn thong thả trên chiếc xe cọc cạch. Trong khi đó, ông không còn nhiều thời gian cho sứ mạng bất khả thi của mình. Di sản của ông sẽ chẳng là gì ngoài một đất nước tan nát, nếu ông không tận dụng cơ hội này để đập bỏ hệ thống mục ruỗng của ông và thực hiện một cuộc canh tân toàn diện.
(*) “Moonshiners, Black Marketers, and Thieves among Us”: Economic Crime in Wartime North Vietnam, tác giả Harish Mehta, chuyên san The Historian (Volume 79, Issue 3, Fall 2017, 5-9-2017, trang 523–559)
(**) PCI – “Chỉ số năng lực cạnh tranh các tỉnh”, do Phòng thương mại và công nghiệp VN và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ phối hợp thực hiện.



........../.