“LỰC LƯỢNG 47”, HỌ LÀ AI?



“LỰC LƯỢNG 47”, HỌ LÀ AI?



***

Làm công việc truyền thông nên tôi không thể không quan sát truyền thông mạng và yếu tố “tâm lý truyền thông” của nó. Nếu chịu khó quan sát và đọc ý kiến (comment) trên các trang của một số người có sức ảnh hưởng, sẽ thấy không khó để phân loại các nhóm mạng xã hội và cũng không quá khó để “định vị” được các nhóm tác chiến của “lực lượng 47”.

Cái gọi là “10.000 người là hạt nhân đấu tranh trên không gian mạng” hẳn nhiên không chỉ là một nhóm “lưu manh” có mỗi nhiệm vụ văng tục bừa bãi. Như được thừa nhận công khai là một tổ chức chuyên nghiệp thì, tương tự “cơ cấu tổ chức” của một bộ máy truyền thống, họ hẳn được chia thành từng nhóm hoặc từng tổ, với mỗi đơn vị được phân công theo dõi một người hoặc một nhóm, nhận nhiệm vụ “tác chiến” trên một hay vài “mặt trận”, hoặc “đồng loạt ra quân” “tổng công kích” vào một thời điểm cụ thể, chẳng hạn sự kiện Biểu tình Cá chết năm 2016.

“Lực lượng 47” không chỉ gồm những kẻ lưu manh vô học. Tôi không nghĩ việc “giữ gìn an ninh nội chính” trên không gian mạng có thể hiệu quả, nếu người ta chỉ tung ra một đám được huấn luyện đánh võ mồm chuyên nghiệp đứng ở bờ đê này chửi với sang bờ bên kia. Đó chỉ là một đám, dù đông nhất nhưng thấp kém nhất, được sử dụng như một lực lượng phản ứng nhanh nhằm chữa cháy cấp thời. Chiến lược của bộ phận an ninh mạng không chỉ là dập đám cháy. Mà là ngăn chặn đám cháy. Có bao giờ chúng ta tự hỏi tại sao một chế độ thối nát đang làm tan hoang đất nước mà không thể sụp đổ? Vì họ vẫn còn kiểm soát tốt vấn đề an ninh trong đó an ninh mạng.

Tôi đã đọc các báo cáo về an ninh mạng trên trang web Bộ công an. Tôi đã đọc những bài báo về “công tác an ninh mạng trong đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc của thế lực phản động” trên tờ Nhân Dân, Công An Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân.
Những cụm từ như “tác động gây phân hóa” đã gợi lên nhiều điều.
Làm thế nào để “tác động gây phân hóa”?
“Nằm vùng” và “cài cắm” là “nghề” của cộng sản. Những bài học và kinh nghiệm trong lịch sử giành chính quyền của cộng sản cho thấy “nằm vùng”, “địch vận”, “đánh từ trong lòng địch” luôn là những kỹ thuật hữu hiệu để tàn phá và bào mòn sức mạnh đối phương. Bằng “nằm vùng”, người ta có thể gây chia rẽ, gây hiềm khích và gây hoang mang.

Lịch sử giành chính quyền của cộng sản cũng cho thấy yếu tố tâm lý và các thủ thuật sử dụng “tâm lý chiến” là rất quan trọng trong “công tác đấu tranh nhân dân”. Quan sát không gian mạng, sẽ thấy rằng chưa bao giờ cảm xúc được thay bằng lý trí bằng lúc này. Bằng việc kiểm soát và thậm chí “thao túng” cảm xúc, người ta sẽ làm cho nhận thức bị lệch lạc.
Khi một vấn đề được suy nghĩ hoặc suy diễn lệch lạc, sẽ có một điểm cộng và một bàn thắng nữa được ghi cho những kẻ không đứng về phe nhân dân nhưng nhân danh “đấu tranh nhân dân”.
“Định hướng dư luận” không chỉ là “tuyên truyền đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước”. “ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN” CÒN LÀ LÁI DƯ LUẬN SANG NHỮNG VẤN ĐỀ VÔ BỔ VÀ TẦM PHÀO.
Trong một thế giới mạng được khống chế tràn lan bằng cảm xúc, công việc này ngày càng trở nên đơn giản.
XÃ HỘI CHỈ CÓ THỂ THAY ĐỔI BẰNG LÝ TRÍ VÀ NHẬN THỨC CHỨ KHÔNG THỂ BẰNG CẢM XÚC.
MỘT XÃ HỘI CẢM XÚC LÀ MỘT XÃ HỘI BẾ TẮC.
MỘT XÃ HỘI BẾ TẮC LÀ MỘT XÃ HỘI BẤT LỰC, trong khi, nhiệm vụ của “lực lượng an ninh mạng” là triệt tiêu mọi nguồn lực dẫn đến thay đổi.

Tôi tin những kẻ chóp bu chỉ huy “lực lượng 47” là những người được đào tạo bài bản về tâm lý truyền thông và các kỹ thuật sử dụng truyền thông để tác động tâm lý con người.
Họ biết đánh vào tính đố kỵ, tính ích kỷ và cái tôi của con người. Họ biết chọn ai để đánh. Chúng ta đang thấy có một sự bơm phồng cá nhân và vuốt ve cá nhân một cách không bình thường. Khi mỗi cá nhân đều được “cộng đồng” nhìn nhận như một “vì sao sáng nhất” thì sẽ chẳng có “tập thể vì sao” nào đủ mạnh để đối phó với chế độ cả.
CÓ BAO GIỜ CHÚNG TA TỰ HỎI VÌ SAO MỘT SỐ CÁ NHÂN LẠI ĐƯỢC XƯNG TỤNG NHƯ VẬY VÀ NHỮNG NGƯỜI CHEN LẪN TRONG ĐÁM KHÁN GIẢ PHẤN KHÍCH VỖ TAY CUỒNG NHIỆT NÀY THẬT SỰ LÀ AI?
Sự xưng tụng cá nhân một cách vô tội vạ, bên cạnh sự bát nháo của cộng đồng được dẫn dắt theo hướng được định sẵn, cuối cùng, mang lại một hậu quả: sự chán nản của thành phần trí thức (tôi muốn nói đến những vị “trí thức tích cực” chứ không phải “trí thức trùm chăn”).
Khi trí thức chán nản không lên tiếng, lại một điểm cộng nữa được ghi cho chính quyền.

Tôi không nghĩ sự lộn xộn và hỗn tạp của không gian mạng chỉ xuất phát từ lỗi dân trí thấp mà không hề có tác động của NHỮNG KẺ GIẤU MẶT ĐANG KÉO DÂN TRÍ ĐI XUỐNG BỜ VỰC CỦA SUY ĐỒI, HOÀI NGHI VÀ NGHI KỴ. CÀNG NGHI KỴ CÀNG MẤT ĐOÀN KẾT. CÀNG MANH MÚN CÀNG DỄ BỊ KIỂM SOÁT. Một phút giây mất kiểm soát là một tiềm ẩn mất chế độ - chính những người trong hệ thống cầm quyền đã nói đi nói lại điều này.

Tuy nhiên, chẳng có gì là không có mặt trái. Với cách họ làm, những đốm lửa nhỏ vẫn hình thành mỗi ngày. Nó tạo ra sự rạn nứt hơn là xoa dịu xã hội. Nó tạo ra sự chia rẽ cộng đồng hơn là cùng cộng đồng tìm tiếng nói chung cho những thực trạng hiển hiện đến mức gần như không cần phải chứng minh đúng-sai. Nó tạo ra sự bất ổn và hỗn loạn hơn là cùng nhau tìm kiếm giải pháp ôn hòa. Nó tạo ra một xã hội hung hăng và thù địch. Chẳng phải tự nhiên mà xã hội ngày càng bạo lực. Những oán giận của ngày hôm nay sẽ được trả bằng nắm đấm hoặc thậm chí bằng máu của ngày hôm sau. Lịch sử hình thành việc “cướp chính quyền bằng tay nhân dân” của chính cộng sản đã minh chứng điều đó.

Với những người thuộc “lực lượng 47”, không người dân nào biết họ là ai. Nhưng có điều chắc chắn rằng họ là người mang cùng dòng máu dân tộc với tôi. Họ cùng thở bầu không khí như những người Việt khác. Họ ăn hạt cơm và con cá như những người Việt khác trên quê hương này. Họ cùng chịu những ảnh hưởng khủng khiếp của vô số thực trạng mà đất nước đang đương đầu với sự kiệt quệ tột cùng: tham nhũng, ô nhiễm nguồn sống, bất công, bạo quyền…

Họ nghĩ gì cho tương lai con em của họ? Họ vẫn sẽ an tâm khi nhìn con của họ bước vào sân trường mà không biết bữa ăn hôm nay có an toàn hay không? Họ có thể, bằng cách nào đó, thoát khỏi mọi bất an đời sống đang bủa vây họ được không?
Tôi không thể biết họ là ai nhưng chắc chắn họ không phải là những người đủ giàu để mua thực phẩm ngoại và đủ tiền để định cư nước ngoài trong một cuộc tháo chạy công khai đang diễn ra.
Không biết họ là ai nhưng tôi tin rằng họ là những người ở tầng lớp rất gần với tầng lớp người dân đang cùng chịu ảnh hưởng của một trong những thời khắc bi thảm nhất lịch sử đất nước này.
Như những người dân khác, họ cũng đang cùng ngồi trên một con tàu đang chìm.


ĐẠO GIA TÔ


ĐẠO GIA TÔ
https://www.facebook.com/thong.nguyen.7374/posts/1649149555108057
************

Nguyễn Thông chú giải một vài từ cho rõ:

-Tiểu Á Tế Á: phiên âm từ tiếng Hán, tức nước Thổ Nhĩ Kỳ.
-Gia Tô: phiên âm từ Jesus (Giê Su), tên của Đức Chúa. Đạo do Đức Chúa Jesus khởi xướng còn gọi là đạo Gia Tô, hoặc đạo Thiên Chúa.
-Thần Jehovah: tức Đức Chúa Trời.
-Đệ ngũ thế kỷ: tức là thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên.
-Đệ thập thế kỷ: tức là thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên.
-Nhật Nhĩ Man: phiên âm từ tiếng Hán, tức là nước Đức.
-Dao Thủy: tức huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định).
-Bộ câu rút: là cây thánh giá có Chúa bị hành hình đóng đinh trên đó, còn gọi là cây thập ác.
-Làm dấu: Động tác theo thứ tự chỉ tay lên: trán, ngực, vai trái, vai phải; tức là tạo thành dấu thập, tưởng nhớ đến Chúa bị nạn.
-Tháng Décembre: tức là tháng 12. Ngày 25 tháng 12 gọi là ngày Giáng Sinh, kỷ niệm Đức Chúa Giê Su ra đời.
-Aoùt: tức là tháng 8.


****************


Đạo Gia Tô gốc ở Do Thái mà ra. Nguyên dân Do Thái (Juifs) ở về phía tây Tiểu Á Tế Á, xưa nay vẫn sùng phụng một vị thần Jehovah. Dân tin rằng thần Jehovah sáng lập nên trời đất và tạo thành ra muôn vật, sau lại tạo ra người theo như hình dung của thần, đàn ông thì gọi là Adam, đàn bà thì gọi là Eva, cho ở vườn cực lạc để cai quản các giống thú vật và được ăn các thứ quả, chỉ trừ ra không được ăn quả cây táo của thần cấm mà thôi. Đến sau, quỷ thấy người được sung sướng, mới xúi Eve ăn quả cây táo và đem cho chồng ăn nữa. Khi ăn rồi mới biết mình trần truồng là xấu xa. Đến lúc thần lại thăm vườn thì người ấy chạy đi trốn. Thần giận bèn đuổi người xuống phàm trần, để cho chịu những điều cực khổ, nhưng lại hứa rằng sau sẽ sai người xuống chuộc tội cho.
Ấy là những sự tôn tín của dân Do Thái. Dân Do Thái bị dân Ai Cập (Egypte) áp chế bắt đi làm nô lệ, chịu nhiều điều cực khổ. Mãi về sau mới có một ngưòi tên là Moise đem dân về xứ Gia Lộ Tát Lĩnh (Jérusalem) làm đền thờ thần Jehovah mà theo giữ lời thập giới. Có một đảng thầy tu giữ đền và cai quản dân. Trong bọn thầy tu thường có những người tiên tri gọi là Prophète, bảo dân Do Thái rằng: thần Jehovah sắp sai người xuống chuộc tội cho dân và cho dân được vinh hiển hơn dân khác.
Sau các thầy tu gọi là bọn Pharisiens cứ vin tiếng thần ra để làm điều bậy bạ và ăn hiếp dân, bấy giờ mới có Đức Gia Tô (Jésus) ra đời, cải lương đạo khác, gọi là đạo Thiên Chúa.
Cứ theo sách của bác sĩ Âu châu thì Đức Gia Tô sinh tại thành Nã Tát Lặc (Nazaretb) là một tỉnh nhỏ ở xứ Gia Lị Lị (Galliée) ở đông Thổ Nhĩ Kỳ (tức là Tiểu Á Tế Á) vào chừng năm Nguyên thủy đời vua Hiếu Bình nhà Hán. Lịch tây kỷ nguyên, bắt đầu ngày tháng từ năm ấy.
Sách bác sĩ lại nói: Phụ thân Ngài là Joseph, mẫu thân Ngài là Maria, và Ngài cũng có nhiều anh em. Nhưng cứ lời tục truyền thì bà Maria cảm thần mộng mà sinh ra Ngài, mà ông Joseph là cha nuôi mà thôi. Tính ngài rất thông minh, trước học theo đạo Do Thái, sau thấy bọn thầy tu làm nhiều chuyện bậy bạ hại dân thì mới lập ra môn đạo khác để cứu đời. Mục đích đạo Thiên Chúa thì chỉ cốt dạy người ta lấy sự yêu mến tôn kính đức Thiên Chúa làm gốc, mà sự thờ kính cốt ở trong lòng không cần gì trang sức bề ngoài. Đối với người ta thì cốt giữ bụng từ bi nhân thứ, coi nhau như anh em ruột một nhà, mà ai ai cũng bình đẳng cả.
Môn đồ tin theo mỗi ngày một đông. Bọn thầy chùa đạo Do Thái sợ mất quyền lợi, mới xui quan La Mã làm hại, song dẫu đức Gia Tô bị hại mà người tin theo lại càng nhiều. Sau này các môn đồ lại đem đạo ấy mà truyền bá đi các nơi. Ông Saint Pierre thì sang truyền giáo bên La Mã, ông Saint Paul thì sang truyền giáo bên Hy Lạp, rồi rải rác đi khắp nơi, ai ai cũng tôn Ngài là con của Thiên Chúa, thay cha mà xuống cứu dân.
Trong khoảng đệ ngũ thế kỷ, các nước bên Âu châu tôn tín đạo Thiên Chúa rất thịnh. Mở ra một tòa Giám đốc tại kinh đô La Mã mà công cử một người làm Giáo Hoàng để coi việc giáo. Từ đệ thập thế kỷ trở về, các nước có việc gì to cũng phải xin phép đến Giáo Hoàng. Các vua nối ngôi, được Giáo Hoàng làm lễ gia miện (đội mũ) cho là vinh hiển lắm. Mà quyền chính trị cũng về tay Giáo Hoàng.
Vào hồi thập lục thế kỷ, có người Nhật Nhĩ Man tên là Mã Đinh Lộ Đắc (Martin Luther) và người học trò tên là Ước Hàn Gia Nhĩ (người Pháp) dựng ra môn giáo mới để phản đối với đạo Thiên Chúa, vì thế trong tôn giáo phân ra làm hai đàng đánh nhau chết hại rất nhiều. Giáo Hoàng khi ấy quyền hành không mạnh bằng khi trước, mới tìm cách để truvền đạo ra hoàn cầu.
Đạo Thiên Chúa truyền sang nước ta, kể cũng đã lâu. Cứ trong Quốc sử chép thì đời Nguyên Hòa nguyên niên nhà Lê (1523), người nước Hà Lan tên là I Nê Khu, mới bắt đầu đến các địa phương Nam Chân, Dao Thủy (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay) giảng đạo Thiên chúa. Ở sách Tây thì chép rằng: các thầy Dòng bên Âu châu năm 1615 đến xứ Nam kỳ. Năm 1626 thì đến xứ Bắc kỳ; các thầy ấy là người nước Pháp, nước Tây Ban Nha và người nước Nhật Nhĩ Man.
Vậy thì đạo truyền sang nước ta, chắc là bắt đầu là người Hà Lan, mà người các nước là tiếp theo đến sau để truyền giáo cả.
Trong năm 1765, Giáo hội cử thầy Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) sang giảng giáo ở các miền Xiêm La, Tây Trúc, Cao Man. Năm 1780 thì thầy Bá Đa Lộc đến miền Biên Hòa, dựng nên nhà thờ để giảng đạo. Năm 1783 Gia Long bấy giờ là chúa Nam kỳ, nhân vì đánh nhau với Nguyễn Huệ bị thua phải tránh nạn, gặp Bá Đa Lộc ở Cà Mau, nói chuyện với nhau vui lòng lắm. Gia Long mới cậy Ngài đem Hoàng tử Cảnh về cầu cứu bên nước Pháp.
Đến đời Thiệu Trị, Tự Đức thì nước ta nghiêm cấm người theo đạo Thiên Chúa, song chẳng bao lâu vì chuyện ấy mà gây nên mối hiềm khích với nước Pháp. Từ lúc vua nước ta và nước Pháp lập hòa ước thì đạo Thiên Chúa lại thịnh hành ở xứ ta.
Quy thức của người theo đạo Thiên Chúa, mỗi người phải đeo một bộ câu rút, ở nhà thì thờ tượng Thiên Chúa và cây Thánh giá hình như chữ thập (+), tức là một thứ hình cụ khi Đức Chúa bị nạn thay tội cho trần gian. Đeo vào mình để làm một sự kỷ niệm cho lúc nào cũng trông thấy công đức của Chúa.
Mỗi ngày trước khi hai bữa ăn cơm và lúc đi ngủ lúc mới thức dậy, phải chỉ tay lên trán, hai vai và ngực gọi là làm dấu, rồi tụng một bài cầu nguyện, nghĩa là chúc tụng công đức của Thiên Chúa mà cầu Chúa cho mình được cái lòng yêu mến Ngài mãi mãi. Mỗi một chủ nhật và ngày lễ thì các người có đạo phải đến nhà thờ quỳ trước tượng Thiên Chúa mà cầu kinh, đoạn rồi vào một nhà riêng quỳ trước mặt ông cố mà thú tội. Ông cố ban cho ăn một miếng bánh thánh cho được gội nhuần ơn Chúa.
Người theo đạo chỉ được phép lấy một vợ một chồng. Khi mới cưới, vợ chồng phải đem nhau đến nhà thờ làm phép cưới, ông cố chúc cho một vài câu rồi rảy nước phép mà rửa tội cho. Khi sinh con, khi chết, cũng đều đem đến nhà thờ rửa tội.
Mỗi năm có ngày thứ tư gọi là ngày vào mùa (Cendres) và một ngày chủ nhật gọi là ngày ra mùa (Pâque). Trong khoảng hai ngày ấy cả thảy bốn mươi ngày thì nhà theo đạo cứ ngày thứ tư và thứ sáu phải ăn chay (kiêng thịt, còn cá và trứng thì ăn được). Nghĩa là trong những ngày Đức Chúa bị nạn thì phải kiêng kỵ, đến ngày ra mùa là ngày Phục sinh thì mới thôi. Còn quanh năm thì thường ngày thứ sáu bao giờ cũng phải ăn chay.
Mỗi năm về ngày hai mươi lăm tháng Décembre là ngày sinh nhật Đức Chúa thì các nhà thờ làm lễ Noel, ngày mười lăm tháng Aout là ngày thánh Mẫu lên trời thì các nhà thờ làm lễ Assomption. Người có đạo đến lễ đông lắm. Lại có một ngày nhà thờ rước đi quanh phố, gọi là lễ Fête Dieu, rước vui lắm.
Người đi tu chia làm hai thứ : một thứ vào nhà tu, chỉ chuyên nghề tụng niệm suốt cả đời, mà cách ăn ở thì rất khổ hạnh. Một thứ thì phải học cho giỏi khoa thần học và biết đủ mọi lễ nhà thờ, ai thi đỗ thì mới được phép làm lễ ở nhà thờ và được cử đi làm cố, làm giám mục, v.v..
Nước ta khi trước rất mộ nho giáo, mà nho giáo thì trọng nhất là việc tế tự, thấy đạo Thiên Chúa chỉ sùng bái riêng một thần, ngoài ra không lễ bái gì nữa, cho nên coi là đạo phản đối mà sinh ra lắm sự tàn ngược. Song cứ xét cái chủ ý của đạo Thiên Chúa thì chỉ cốt khuyên người ta phải thương yêu nhau, cũng chẳng khác gì lòng nhân thứ của đạo nho, lòng từ bi của đạo Phật. Vậy mới biết Thánh nào cũng vậy, cũng chỉ dạy người ta lấy sự làm lành mà thôi. Người ta không xét đến nơi đến chốn mà cứ thấy lạ tai lạ mắt thì đem lòng hiềm nghi lẫn nhau, chẳng qua chỉ gây nên mối họa loạn, mà hại lẫn nhau thực là điều trái với tôn chỉ của đạo giáo mình cả.
Vả lại lòng tin tưởng của người ta nên mặc cho người ta được tự do, sao nên lấy ý riêng của mình mà ngăn cấm, ấy lại là trái với lẽ công bằng nữa.
Bây giờ thì nước nào cũng đã rõ cái lẽ tự do tôn giáo, đạo thịnh hay suy chỉ cốt bởi lòng người tôn tín nhiều hay ít, chớ không còn thói ghen ghét nhau như xưa nữa.


PHAN KẾ BÍNH
(Theo Việt Nam phong tục, chương 11)
................../.





NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH PHONG TRÀO



Phê bình văn học - Diện mạo của một thời



NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH PHONG TRÀO

http://www.viet-studies.net/BuiCongThuan_PheBinhPhongTrao.html


Bùi Công Thuấn
***


Nhà phê bình phong trào là những người viết phê bình văn học xuất thân từ phong trào. Họ viết phê bình theo phong trào. Đặc biệt, khi có một tác phẩm hay một hiện tượng văn học gây sốc thì chính những nhà phê bình phong trào tạo nên sự sôi nổi, ồn ào trên văn đàn. Có lúc không tránh được sự quá đà. Và khi ấy người ta thấy vắng bóng nhà phê bình chuyên nghiệp.

Viết về họ, tôi chỉ ghi nhận một “hiện tượng” của phê bình văn học, để làm đầy đặn diện mạo của phê bình văn học Việt Nam một thời.

 “TAY NGANG” LÀM PHÊ BÌNH

“Giáo sư Hồ Ngọc Đại đã đề cập vấn đề này theo hướng cần phải có đội ngũ làm lý luận phê bình văn học chuyên nghiệp, chứ không thể dừng lại ở mức độ của những người làm lý luận phê bình văn học “tay ngang”. Theo giáo sư, để phân biệt được đâu là chuyên nghiệp, đâu là tay ngang” thì phải căn cứ vào sản phẩm anh ta làm ra chứ không căn cứ vào học hàm, học vị, tuổi tác, giới tính... Ông đưa ra một dẫn chứng khá thú vị và thuyết phục rằng có một vị giáo sư, tiến sĩ tham gia biên soạn sách giáo khoa có những cái “sai lè”, ông Đại gọi đó là người “tay ngang”. Vị giáo sư nọ gặp ông Đại nói: “Sao ông lại bảo tôi là “tay ngang”, tôi là giáo sư, tiến sĩ của một trường đại học lớn, nhiều năm làm công tác biên soạn sách giáo khoa cho bậc học phổ thông và đại học”. Ông Đại trả lời thẳng thắn: “Anh là ai tôi không quan tâm, chỉ biết những cuốn sách mà anh biên soạn như vậy đích thị là sản phẩm của những người “tay ngang”, còn những người chuyên nghiệp không bao giờ người ta làm như thế”.[1]

Tôi gọi họ là nhà phê bình “tay ngang”, vì từ một duyên do nào đó, họ tạt sang viết phê bình. Công việc chính của họ là việc khác. Họ có thể là những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, là kỹ sư, nhà khoa học, có khi là bác sĩ…lâu lâu họ viết một bài phê bình, nhân một hiện tượng văn học nào đó. Nhà thơ Inrasara là người chuyên nghiên cứu văn hóa Chăm. Ông làm thơ rồi trở thành người viết phê bình. Nhà phê bình Nguyễn Hòa là nhà báo. Trước đó ông là Đại Tá, làm việc ở Văn Nghệ Quân đội. Nhà phê bình Đông La xuất thân là kỹ sư Hóa học. Đông La đang làm ở một viện nghiên cứu về dược của Bộ Y tế, do tình cảm sâu đậm với nhà thơ Chế Lan Viên, ông dấn thân vào văn chương, làm thơ rồi viết phê bình. Nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên làm việc tại Viện Triết học. 10 năm đọc sách Triết, ông thấy “chất” của mình hợp hơn với lý luận phê bình. Nhà phê bình Hoài Nam (1975) là một nhà báo. Anh tốt nghiệp khoa Văn học Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, về công tác tại Ban văn nghệ Đài truyền hình Việt Nam. Hoài Nam viết điểm sách, viết chân dung, viết về một số vấn đề, hiện tượng của đời sống văn chương đương đại. Nhà phê bình Đoàn Minh Tâm (1982), tốt nghiệp chuyên ngành Sư phạm Ngữ văn - Khoa Sư phạm (nay là Đại học Giáo dục) - Đại học Quốc gia Hà Nội, làm biên tập viên ở tạp chí Văn nghệ quân đội…

Một vài người nói về công việc của mình: [2]

Nhà phê bình Nguyễn Hòa: “Tôi không viết phê bình đều đặn lắm, thường chỉ viết những gì tôi thấy cần viết. Tại sao ư? Có lẽ vì tôi chưa phải là người làm phê bình chuyên nghiệp. Khi làm nghề chuyên nghiệp, người ta sẽ viết trong sự thôi thúc nội tâm và từ đòi hỏi của đời sống văn học, còn khi làm theo lối nghiệp dư thì sở thích sẽ chi phối cung cách làm việc, thích thì làm, không thích thì thôi.”;”nhìn rộng ra, thử hỏi trong đời sống văn học nước mình tới hôm nay, có mấy ai làm phê bình văn học như một nghề duy nhất và đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của bản thân? Hầu như ai cũng có một nghề nghiệp làm phương tiện kiếm sống rồi mới viết phê bình. Điểm qua các nhà phê bình văn học trong nửa thế kỷ qua sẽ thấy, nếu họ không là giảng viên, giáo viên, thì cũng là nhà nghiên cứu hay nhà báo, biên tập viên… Không chỉ vì “cơm áo không đùa với khách thơ”, mà còn “không đùa với cả khách phê bình” nữa đấy. Cứ theo logic ấy và suy ngẫm, tôi thấy mình là nhà báo làm phê bình hơn là nhà phê bình làm báo. Chí ít thì có khi vài ba tháng, thậm chí tới cả năm, tôi không viết bài phê bình văn học nào, nhưng báo thì vẫn viết đều đều!”[2b]
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: “Tôi vẫn thường viết bài điểm sách theo yêu cầu PR của các nhà xuất bản và các nhà làm sách tư nhân. Tôi làm việc này đều đều ngày tháng. Tôi thấy đó là việc nên làm khi anh được yêu cầu PR nhưng chọn được cuốn sách anh thấy nên viết, cần viết. Quyền lựa chọn là tự do ở chính mình”.

Nhà phê bình phong trào đa dạng về xuất thân. Năng lực và trình độ rất khác nhau. Họ viết phê bình với động cơ và mục đích cũng rất khác nhau. Mỗi người có một phong cách riêng để gây ấn tượng. Có người thực tâm tham gia vào thế giới văn chương nghệ thuật. Có người được phong là Chí Phèo, vì ông ta muốn giết Cái Tinh Thâm Thời Đại Mình là Bá Kiến [*]. Có người giấu mục đích chính trị sau những mặt nạ.

Một vài trong số họ nói rất to, lấn át người khác, để giành chân lý về mình. Thường thì nhà phê bình phong trào rất tự tin về “tài năng” của mình, tự tin về những gì mình viết, không ngại đụng chạm và coi thường việc “ném đá” của công luận. Nhà phê bình Đông La tự phô trương mình như thế này: “Tôi đã hoàn thành 1 tập thơ, 1 tập truyện ngắn và 1 tập phê bình, cả 3 đều khá dầy dặn, tôi sáng tác chỉ vì văn chương nên không sợ gì hết. Còn chưa in vì chưa có tiền thôi. Mấy năm qua cho con du học Mỹ, thua chứng khoán hơn tỷ, thua “đất” vài ba tỷ, nên cũng gặp khó khăn...Nói thực muốn khen được những bài tôi viết liên quan từ khoa học, triết học đến lý luận văn học cần phải có tài đấy! Không ít người bạn tôi là PGS, TS (cụ thể là ở trường KHXH&NV TPHCM) sau khi đọc những bài tôi viết về triết học, về chính chuyên môn của họ, còn thú nhận rằng, không thể hiểu hết những điều tôi viết.[3]

Trong Hội nghị lý luận phê bình văn học lần II (2006), có nhà phê bình được gọi là “thùng thuốc nổ”. Nơi trường văn trận bút, họ bộc lộ rõ cá tính. Thái độ phê bình nhiều khi đối nghịch nhau quyết liệt. Trong tranh luận, họ thường rời bỏ văn chương để bắt qua những vấn đề nhân thân của ngưởi đối thoại theo kiểu “bỏ bóng, đá người”. Họ dùng mọi thủ đoạn viết lách để giành phần thắng. Chính lực lượng này tạo ra sự sôi nổi của văn đàn trong những cuộc “bút chiến” (đa phần có mục đích ngoài văn chương). Một vài người trong số họ quá đà, gây ra tình trạng “loạn chuẩn”. Nhiều người bỏ qua cả những chuẩn mực văn hóa tối thiểu.
Tính chất “tay ngang” của nhà phê bình phong trào thể hiện rõ trong các hội nghị. Hội nghị lý luận phê bình lần II (2006) có hơn 200 người tham dự, với 60 tham luận. Ngoài khách mời và những nhà phê bình lý thuyết, còn lại, đa phần là nhà phê bình phong trào. Nhà phê bình Văn Giá tổng kết buổi sáng Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần II (2006) như sau: “Sau phần Lễ bỏ qua phần Hội và tiến thẳng lên phần Chợ.”[4]
 Một Hội nghị lý luận phê bình cấp quốc gia mà biến thành “chợ” thì không thể tưởng tượng nổi! Vì sao? Vì chẳng ai chịu nghe người khác nói. Theo tường thuật của Quỳnh Thi, có nhiều chuyện thật hài hước đã diễn ra trong hội nghị Lý luận phê bình lần II (2006). Chẳng hạn, nhà văn Nguyễn Văn Hạnh đọc tham luận có tiêu đề “Tự do tư tưởng - Tự do sáng tạo và hoạt động văn học nghệ thuật”. Mới đến nửa chừng của bản tham luận, hội nghị đã bắt đầu mất trật tự. Ai đó nói: “Về hưu rồi ông mới bàn đến tự do…”. PGS-TS Phạm Quang Trung đọc tham luận: “Rất cần một hệ thống lý luận văn chương dành cho nhà văn”. Ban đầu, người ta nói chuyện riêng, ồn ào. Nhưng khi Phạm Quang Trung nói được nửa chừng, thì đã 6 lần bị hội trường vỗ tay kèm theo tiếng hô “Thôi!”, “Thôi, xuống đi. Dưới này không phải là học sinh của ông ở Ðà Lạt đâu!”[5]. 

Tôi nghĩ đó không phải là một hội nghị của những nhà phê bình chuyên nghiệp. Nhà phê bình Nguyễn Hòa gọi nhà phê bình phong trào là nghiệp dưNói cho đầy đủ, đa số người làm phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay chưa thống nhất về quan niệm, về các tiêu chí cơ bản (dù tương đối) để định giá tác phẩm, nên tình trạng chung là thích gì nói nấy, mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy viết, viết cả điều rất kỳ quặc mà không thấy “ngượng bút”... Nghĩa là phê bình đang trở thành “sân chơi” của quá nhiều cây bút nghiệp dư![5b]

Dù là phê bình văn học, nhưng Nhà phê bình phong trào thường quan tâm đến vấn đề thời sự ngoài văn chương. Vì thế, họ không dùng đến lý thuyết phê bình văn học mà dùng vốn lý luận văn học ở phổ thông. Họ lấy kinh nghiệm sống và viết, lập trường chính trị của mình làm chuẩn mực đánh giá hiện tượng. Với họ, cái đúng là cái hợp với Tôi. Khác với Tôi thì sai (thường không chấp nhận Cái Khác-The Others). Tất nhiên “cái Tôi” của nhà phê bình phong trào là rất phức tạp (về ý thức chính trị, về mục đích viết phê bình…)


SỰ PHỨC TẠP CỦA NHÀ PHÊ BÌNH PHONG TRÀO

Mỗi khi có một hiện tượng văn học, thì người ta thấy xuất hiện nhiều người viết phê bình có cái tên lạ. Và khi ấy, những nhà phê bình lý thuyết, các nhà phê bình chuyên nghiệp thường “lặn” mất. Văn đàn thuộc về nhà phê bình phong trào, họ thả sức “múa gậy vườn hoang”. Nhất là từ khi Internet cùng với các trang web văn chương và blog cá nhân xuất hiện, thì phong trào phê bình trở nên sôi nổi vượt ra “ngoài tầm kiểm soát”.

Chẳng hạn, trường hợp truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Truyện được in trên báo Văn Nghệ tháng 9/2005 và được chọn là 1 trong 10 truyện ngắn hay của báo Văn Nghệ 2005. Khi Cánh đồng bất tận được báo Tuổi Trẻ giới thiệu, công luận dậy lên một cao trào phê bình, một bên là phản đối, một bên là bênh vực tài năng. Trang Viet-studies.com của GS Trần Hữu Dũng (USA) ghi nhận, từ tháng 12/2005 đến 30/6/2006 có 66 bài viết của nhiều tác giả như: Hữu Thỉnh, Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Nguyễn Quang Lập, Phạm Xuân Nguyên, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Minh Thái, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Khắc Trường, Lê Minh Khuê, Tạ Duy Anh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Hòa, Hoàng Đình Quang, Lê Minh Quốc, Lê Chí, Huỳnh Ngọc Trảng, Lê Vĩnh Trang, Nguyễn Trọng Tín, Ngô Khắc Tài, Vy Thùy Linh, Đỗ Hoàng Diệu, Lê Duy, Công Thắng, Vũ Hồng, Vưu Nghị Lực, Nguyễn Tý, Huỳnh Kim, Trần Thanh Bình, Lê Phú Khải, Tào Văn An, …
Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy Cà Mau đã kiểm điểm Nguyễn Ngọc Tư vì: “Cánh đồng bất tận thiếu tính tư tưởng, giáo dục xã hội, giáo dục con người, thiếu tính văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp mà xuyên tạc chê bai nhiều, gây bất lợi./ Phê phán xã hội, nói cái xấu, mặt trái, hư cấu vượt quá hiện thực, cái không tốt nhiều hơn, không định hướng cho con người đi đến tương lai cuộc sống, hướng tới cái đẹp.”[6]
Tác giả Lê Hồng Thọ (Tokyo) nhận xét: “Đâu rồi những tác phẩm văn chương hiện đại của Việt nam? Người ta thường trách móc, tự vấn tại sao đất nước có nền văn hoá, truyền thồng lâu đời, trải qua những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử từng làm ngạc nhiên, phấn chấn cho hàng trăm triệu người trên trái đất và đang chuyển mình bức phá lạc hậu, nghèo đói một cách mãnh liệt hôm nay nầy lại chỉ có “Cánh đồng bất tận” với những người “chăn vịt chạy đồng” là hiện tượng đáng chú ý, bàn luận sôi nổi trong đời sống văn học đến thế sao? Một xã hội sinh động đang cọ xát kịch liệt giữa “cũ” và” mới”, giữa những bóng tối và ánh sáng, giữa con người chật vật với “thực tế”, với “hội nhập”…phải chăng là một “cánh đồng bất tận” bao la, là sân chơi cho những nhà văn hiện đại, là bãi đáp cho những đàn cò trắng của văn học Việt Nam hơn là những vũng bùn đục ngầu sa đọa kiểu phương tây mà họ đã đi trước Nguyễn Ngọc Tư hàng thế kỷ. Thế mà “Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư lại được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam mới là chuyện lạ đời, tiêu chí đánh giá để trao giải thưởng của Hội nằm ở đâu, liệu điều nầy vô tình đã hạ thấp giá trị của nền văn học hay nói khác đi văn học đương đại của nước nhà chỉ có thế mà thôi, “Cánh đồng bất tận” là đỉnh cao nhất?Đáng buồn thay!”[7]
Trái lại, nhiều nhà phê bình lên tiếng bênh vực và khen ngợi Cánh đồng bất tận.Phạm Xuân Nguyên: “Cánh đồng bất tậnDữ dội và nhân tình”; Nguyễn Thu Thủy – 'Cánh đồng bất tận' đề cao giá trị sống con người”.  Đỗ Hồng Ngọc: “Tiếng thở dài với Cánh đồng bất tận”; Nhà thơ Hữu Thỉnh, chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho biết ý kiến của ông khi dư luận ồn ào: “Đây là một tác phẩm văn chương, chứ không phải là bút ký hay phóng sự. Tác giả hoàn toàn có quyền hư cấu, sáng tạo nhằm chuyển tải tốt nhất thông điệp nghệ thuật đến người đọc. Đảng và Nhà nước hoàn toàn tôn trọng quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ. Đây chỉ là vấn đề ứng xử với một tác phẩm văn chương. Tất nhiên, tác phẩm còn có những chỗ bất cập, non nớt bởi nó là một truyện ngắn vạm vỡ của một tác giả còn rất trẻ, vì vậy cũng rất cần sự chỉ bảo, góp ý chân tình, đầm ấm. Nguyễn Ngọc Tư là người tha thiết yêu quê hương, không lý gì cô lại có ý xúc phạm đến quê hương và những người dân xung quanh mình./ Thực ra, vì yêu mến Nguyễn Ngọc Tư mà dư luận đã quá ồn ãtrước sự việc này. Ban tuyên giáo tỉnh ủy Cà Mau chỉ mới yêu cầu chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh gặp gỡ, kiểm điểm chứ chưa có quyết định nào gay gắt cả. Tôi đã gọi điện cho Nguyễn Ngọc Tư, cô vẫn vui vẻ và cho biết, mọi chuyện diễn ra nhẹ nhàng chứ không có gì nặng nề như bạn đọc lo lắng.”[8]

Trường hợp tập truyện Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu gây bão dữ dội trên các diễn đàn cũng là một hiện tượng phê bình. Tuy nhiên, đàng sau những ý kiến tranh cãi là mục đích chính trị không che dấu. GS Mai Quốc Liên, trong một cuộc hội thảo, nói rõ, Bóng đè được một tác giả nước ngoài “mông má” lại, thành tác phẩm mang ẩn ý chính trị.

Tác giả Nguyễn Văn Lục trên Talawas đã nói rõ về những ẩn ý chính trị này:

Bóng đè xuất hiện, đá lăn chiêng những thần tượng dỏm, mục rữa, để cân bằng với Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Một bên sách hồng, một bên sách đen. Một bên tô hồng, một bên bôi đen. Có lẽ đất nước chúng ta cần cả hai thứ đó một lúc. Đây là hai hình ảnh khá tương phản, một nữ anh hùng và một nhà văn rất ấn tượng…

…Một nhật ký kể lại quá khứ lý tưởng và một nhà văn đảo xới mồ mả quá khứ lên như lời nguyền rủa. Nó như một bức tranh hiện thực có hai mặt, một bên nói tới lý tưởng, tới hy sinh cao cả của tuổi trẻ và một bên đặt lại tất cả những gì đã làm nên quá khứ đó.

“…Nhưng qua sự cố này, người ta có thể từ đó đánh giá được sự khác biệt sâu xa và căn bản giữa trong và ngoài nước. Bài học này của Đỗ Hoàng Diệu cho thấy bản chất sinh hoạt văn hoá trong và ngoài nước có những khác biệt nền tảng. Đó là cùng một dòng văn học Việt Nam, nhưng chia làm hai nhánh: Nhánh có lãnh đạo kiểm duyệt và nhánh không có chính sách kiểm duyệt. Một bên đa dạng, đủ kiểu, đủ sắc mầu. Một bên đồng phục, cùng một kiểu, cùng một mầu.”

Đỗ Hoàng Diệu đã muốn làm được một điều gì hơn thế nữa. Viết như một trả giá, đòi một món nợ tinh thần mà xã hội ấy, lịch sử ấy đã một thời lừa dối, phỉnh gạt. Chính ước muốn viết lột trần xã hội, đánh tụt giá những điều phô trương phỉnh gạt, trả lại cho nó cái mẫu số chung là sự canh chừng và tước đoạt tinh thần đã là cái cớ cho sự quy chụp hiện nay. “[9]

Hiện tượng thơ Thiền của Hoàng Quang Thuận lại bộc lộ một khía cạnh khác của phê bình phong trào. Ngày 8/8/2012 tại Hội trường Hội Nhà văn VN, Tạp chí Nhà văn đã tổ chức một cuộc hội thảo khá “hoành tráng”, có nhiều quan chức cấp cao tham dự. Nhan đề hội thảo là: “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử”. Theo Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử -Hội Nhà văn – Hà Nội tháng 8 năm 2012 có 22 tác giả. Đa số tham luận là những bản tụng ca thơ Hoàng Quang Thuận. Hội thảo, có sự hiện diện của nhiều nhà phê bình, nhà thơ, nhà văn như: Hữu Ước, Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ Ngọc Yên, Phạm Quang Trung, Trần Thị Thanh, Hà Ngọc Hòa, Lê Thị Bích Hồng, Ngô Hương Giang, Vũ Bình Lục, Nguyên An, Nguyễn Hòa, Văn Chinh, Hữu Thỉnh, Trần Nhuận Minh, Dương Kỳ Anh. Dương Xuân Nam, Ngô Văn Phú…

Nhà thơ Hữu Việt (Phó Chủ tịch đoàn) đề dẫn: chỉ trong vòng ba ngày đêm lưu lại ở vùng nong thiêng, anh đã viết một mạch 63 bài thơ in thành tập “Thi Vân Yên Tử”. Sau đó ba năm, Hoàng Quang Thuận công bố tiếp “Ngọa vân Yên Tử” với 80 bài. Đến năm 2010, anh gộp lại thành tập 143 bài lấy tên chung là “Thi Vân Yên Tử”… Qua cuộc hội thảo hôm nay, chúng ta cũng mong muốn sẽ được lý giải phần nào hiện tượng làm thơ với số lượng nhiều trong thời gian rất ngắn của Hoàng Quang Thuận.”

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn (Phó Viện trưởng Viện Văn học) giữ vai trò Chủ tịch Đoàn cũng là Chủ tịch Hội đồng thẩm định tham luận, trong phần phát biểu tổng kết hội thảo, ông đã nêu lên 4 nội dung chính: Thứ nhất, hội thảo thừa nhận và ghi nhận sự xuất hiện của tập thơ “Thi vân Yên Tử” của tác giả Hoàng Quang Thuận nhưmột hiện tượng văn học; Thứ hai, trong việc định giá thơ Hoàng Quang Thuận còn những băn khoăn và cách hiểu với nhiều mức độ khác nhau; Thứ ba, định tính về những sản phẩm thơ mang cảm quan Phật giáo và thơ viết về vùng đất Phật Yên Tử của Hoàng Quang Thuận là cực khó và chưa dễ tìm được sự đồng thuận; Thứ tư, vấn đề thể thơ và hình thức nghệ thuật của “Thi vân Yên Tử” là vấn đề cònnhiều gợi mở cho bạn đọc và giới phê bình.[10]

Khi “người làm thơ” Hoàng Quang Thuận bị phát hiện “đạo văn”, tạp chí Nhà Văn phải kiểm điểm, người ta mới vỡ nhẽ ra nhiều điều về tham vọng của người làm thơ muốn giật giải Nobel văn chương này. Các nhà phê bình phong trào quen tụng ca bị một phen bẽ bàng. Nếu người viết phê bình chỉ chú mục vào văn bản tác phẩm (thơ Hoàng Quang Thuận) mà không quan tâm đến những yếu tố văn hóa, xã hội và quá trình kiến tạo văn bản thì rất dễ ngộ nhận. Hoàng Quang Thuận nói thơ của ông là do tiền nhân giáng bút. Nhưng Luật sư Nguyễn Minh Tâm cho biết: “Tình cờ, khi lên Yên Tử, tôi vào quầy sách của Ban quản lý, thấy cuốn Chùa Yên Tử, Lịch sử - Truyền thuyết di tích và danh thắng của tác giả Trần Trương… tôi phát hiện ra trong hầu hết các bài thơ anh Thuận viết, đều lấy từ nội dung cuốn sách này, thậm chí có nhiều bài thơ, câu thơ còn sao chép nguyên xi câu văn của tác giả Trần Trương.”[11]. Bài Thơ “nhập đồng” của nhà phê bình Nguyễn Hòa là một phản biện đáng đọc. (http://phebinhvanhoc.com.vn/tho-nhap-dong/)
Phê bình văn học khó biết bao!
HIỆU QUẢ VĂN CHƯƠNG

Phê bình phong trào phản ánh ý kiến nhất thời của một cộng đồng người đọc (phương pháp đọc, trình độ đọc và mục đích đọc). Nó phơi bày ra một cuộc đấu tranh tư tưởng trên mặt trận văn nghệ. Ý kiến của công luận đôi khi có tác dụng rất mạnh tới tình hình chính trị tư tưởng đương thời. Những bài phê bình văn chương sex, ít nhiều có sức ngăn chặn những tác phẩm dùng sex bẩn cho những mục đích ngoài văn chương (thí dụ Bóng đè, Sợi xích). Năm 2015, khi công luận lên tiếng phản đối mạnh mẽ, Cục xuất bản phải ra công văn đình chỉ xuất bản truyện ngôn tình, đam mỹ. Vì người ta thấy rõ ảnh hưởng xấu của loại sách này đối với bạn đọc trẻ và sự gây hại của nó đối với văn học Việt Nam.

Đáng kể nhất là, Nguyễn Ngọc Tư và Cánh đồng bất tận đã được bảo vệ khỏi những hệ lụy có thể có gây ra bởi nhận thức cũ, từ đó mở ra một khuynh hướng dân chủ hơn, thoáng hơn trong nhìn nhận đánh giá tác phẩm văn học. Công luận cũng đã ngăn chặn nhiều vụ đạo văn mà trường hợp Hoàng Quang Thuận là một vụ tai tiếng còn mãi đến mai sau. Chính nhà phê bình Nguyễn Hòa trong tham luận gửi tới Hội thảo “Hoàng quang Thuận và non thiêng yên tử” đã lên tiếng cảnh báo về giá trị giả “thơ” Hoàng Quang Thuận trước khi nó bị phát giác.

Cũng vậy, có nhiều tranh cãi gay gắt về việc Hội Nhà văn trao giải thưởng cho tiểu thuyết Hội Thề của Nguyễn Quang Thân (2010). Một bên ca ngợi Hội Thề, bên phản biện cho rằng Hội Thề có nhiều sai lạc so với chính sử, xin đọc bài tổng hợp của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến [12]. Trong cuộc tranh luận này, người ta thấy sự hiện diện của nhiều nhà văn, nhà phê bình có thế giá. Đó là nhà thơ Hữu Thỉnh (Chủ tịch Hội Nhà văn), PGS.TS. Nguyễn Văn Dân, PGS.TS. Phạm Quang Trung, nhà phê bình Lê Thành Nghị, Đỗ Ngọc Thạch, Từ Quốc Hoài, Phạm Viết Đào, Hoài Nam, Hà Văn Thùy, Trần Mạnh Hảo, Hoàng Tiến, Trần Hoài Dương…Cuộc tranh luận không đưa đến kết quả cụ thể nào (Hội Thề vẫn được giải), nhưng lộ ra nhiều vấn đề. Đó là, không có một tiêu chí chung để đánh giá tác phẩm. Trái lại, những ý kiến về Hội Thề đều xuất phát từ góc nhìn cá nhân mà đằng sau đó là “sự nhạy cảm chính trị”. Những ý kiến phản biện đã chỉ ra những khiếm khuyết của Hội Thề so với chính sử, đó cũng là cách nhận thức chung về tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam. Nhà văn có quyền hư cấu, có quyền làm đầy những khoảng trắng lịch sử, nhưng không được trái với chân lý lịch sử, không được bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; bởi lịch sử đươc viết bằng máu của dân tộc này. Cũng từ sự phản biện quyết liệt của nhiều nhà văn, nhà phê bình, người đọc buộc phải hoài nghi về việc trao giải của Hội Nhà Văn, và việc độc giả thờ ơ với những tác phẩm đạt giải là có nguyên do.

Tuy nhiên, mặt trái của phê bình phong trào là, trong khi tranh luận, có người đã quá đà “nặng lời” với người đối thoại. Kiểu ngôn ngữ vô văn hóa này dần dần trở thành cách nhà phê bình dung để hạ độc đối thủ. Ngày nay khi các cuộc tranh luận tạm lắng xuống, đọc lại những lời của nhà phê bình phong trào choảng nhau, người đọc không thể tưởng tượng được có lúc văn hóa tranh luận lại xuống cấp đến thế.

Trong bài: “Nhiễu loạn sách văn chương tái bản”,[13] nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên đặt vấn đề về trách nhiệm cho tái bản những cuốn mà ông cho là “chứa nội dung thiếu lành mạnh, thậm chí là độc hại” như: Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu; Xin lỗi, em chỉ là con đĩ (tác giả Tào Đình Trung Quốc) do Trang Hạ dịch; Sợi xích của Lê Kiều Như; Trên lưng chừng nhìn xuống đám đông của Nguyễn Vĩnh Nguyên; Phù phiếmcủa Phan Việt; Sát thủ đầu mưng mủ của Thành Phong; Chân dài sao phải xoắn của Huyền Lê; Thương nhau để đó của Hamlet Trương và Iris Cao; Đường hai ngả - Người thương thành lạ của Anh Khang...”.
Tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên cho rằng đó là một bài báo ẩu, khó chấp nhận được.và yêu cầu “ông Đỗ Ngọc Yên cần làm rõ luận điểm của mình để tránh sự áp đặt, vu khống, gây bất lợi về mặt pháp lý, có thể phương hại đến hoạt động kinh doanhcủa công ty đầu tư và nhà xuất bản”. Cuối cùng, Nguyễn Vĩnh Nguyên “bày tỏ thái độ…, nói một lần cho xong chuyện”: “Đọc bài viết của ông Đỗ Ngọc Yên, tôi đã nghĩ, Wikipedia nên sớm cập nhật thêm một loại chó săn mới. Loại này vừa chỉ điểm, vừa ăn sẵn, vừa nhớ mùi lâu, vừa hung hăng, vừa theo bầy, và dĩ nhiên, là vừa trung thành, vừa hăng hái đến kệch cỡm – chó săn trong phê bình văn nghệ.”[14]
Tôi không nghĩ những lời lẽ như thế lại thốt ra từ miệng một “nhà văn”. Nguyễn Vĩnh Nguyên sợ bài phê bình của Đỗ Ngọc Yên làm “phương hại đến hoạt động kinh doanh của công ty đầu tư và xuất bản”, trong đó có quyền lợi của anh, nên nặng lời sỉ nhục nhà phê bình. Hóa ra Nguyễn Vĩnh Nguyên không vì văn chương, mà sợ quyền lợi của mình bị tổn hại nên đạp vào mặt Đỗ Ngọc Yên để răn đe, mặc dù nhà phê bình này chỉ đặt vấn đề xã hội chung đối với nhiều tác phẩm. Chẳng nhẽ nhà phê bình không được quyền lên tiếng khi bầu khi văn hóa, văn chương bị nhiễm độc?
Và đây là lời nhà phê bình Đông La viết về ông Lê Hiếu Đằng: “Còn nữa, Đằng cũng rất láo khi viết về chuyện văn chương:’…các vị phê bình chỉ điểm (cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội đối với tên Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc ‘bề hội đồng’ bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm Mở Miệng)”. Nếu nghe theo thằng Nguyên chửi ông Lưu, bênh Nhã Thuyên, ca ngợi thứ thơ “buồi, dái, lồn, cặc, đụ, địt”, thơ ‘rác rưởi, cứt đái’, thì chắc Đằng thường ngày phải ăn cứt chứ không ăn cơm. Bởi nếu còn biết phân biệt cứt với cơm thì không ai viết như vậy”[15]

Dẫu thế nào cũng không thể chấp nhận được cách nói xúc phạm như vậy từ miệng một người viết văn, tức là người góp phần xây dựng “một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Sự biểu hiện văn hóa của một người là thước đo để người khác nhận biết về anh ta. Ngôn ngữ là thành tố quan trọng bậc nhất của văn hóa, vì thế không ai có thể che dấu nhân cách của mình khi diễn ngôn. Tuy nhiên, mỗi người có sự chọn lựa thái độ riêng khi bày tỏ chính kiến, vì đó là quyền của cá nhân. Và đánh giá của công luận dựa trên những chuẩn mức văn hóa dân tộc và cộng đồng cũng là quyền của mọi người.

Ai cũng biết nhà phê bình Đông La tự nguyện làm người lính trung thành của Đảng. Đối với “người chiến sĩ” ấy, kẻ “chống Đảng” là kẻ thù, vì thế phải dùng bạo lực để trấn áp (Ngôn ngữ cũng có quyền lực). Thực ra Đông La không chỉ “đánh” Lê Hiếu Đằng. Nhà phê bình này còn “to tiếng” về nhiều người khác, dù họ là “cán bộ cao cấp”. Chẳng hạn, khi “tâm sự” với nhà thơ Inrasara (thực ra là phản biện), Đông La cho biết: “Trước hết tôi phải thú nhận rằng đến nay tôi chưa biết Inrasara là ai?...“Chưa biết” ở đây là chưa biết Inrasara viết gì, hay dở ra sao, tài năng văn chương thế nào? Không phải do khinh người gì mà nếu ai quan tâm về tôi sẽ thấy tôi viết từ khoa học, triết học, lý luận văn học, lịch sử đến chính trị xã hội, phản biện từ cán bộ cao cấp như Trần Độ, Trần Xuân Bách, Trần Phương,..., đến các nhà văn hàng đầu như Nguyên Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm, v.v…thì đúng là không có thời gian để ý đến Inrasara thật”.

Trong bài “Công kích Lữ Phương” [16], nhân việc phản biện Lữ Phương, Đông La còn nói về những người “chống đối” khác: “…tôi thấy các vị …đều rất tinh khôn, là những người có tham vọng, từng hưởng bổng lộc của chế độ, có những người còn có quyền cao chức trọng nữa…(hay chỉ đơn giản là mắc sai lầm, bị thất sủng mới quay lại chống đối?!) Lữ Phương hãy đọc những bài chửi nhau loạn xạ của Hoàng Tiến và Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Thanh Giang và Hoàng Minh Chính, Dương Thu Hương và Nguyễn Thanh Giang…, xem có mùi tiền, mùi quyền và mùi danh không?”

Trong bài Để Gió cuốn đi [17], trao đổi với Văn Chinh về tri thức cảm tính, Đông La viết: “như Lê Đạt, Văn Chinh, Nguyễn Huệ Chi…thực chất mới chỉ biết ‘đánh vần’ những khái niệm khoa học chứ hoàn toàn chưa hiểu gì về nội hàm và ngoại diện của chúng”
Tại Hội nghị lý luận phê bình văn học lần thứ IV (Tam Đảo-2016), Đông La giữ nguyên tư thế xung trận khi ông lên diễn đàn. Tay ông giơ cao một cuốn sách sắp in, trình trước Hội nghị, rằng trong đó ông nói về Trần Độ, Huệ Chi, Trần Xuân Bách, Phạm Xuân Nguyên. Ông cho rằng bây giờ trắng đen loạn xạ, có cả một phong trào lật đổ thể chế, điển hình là Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo. Nguyên Ngọc nói sai, nói lộn ngược. Gần đây ông bênh Bob Kerrey, nói rằng lính Mỹ bắn dân vì Việt Cộng núp trong dân, nên bộ đội cũng có tội. Nguyên Ngọc dùng miệng lưỡi xảo quyệt liếm máu Bop. Trần Mạnh Hảo nói Phát xít Nhật là chính nghĩa [18]
Dù Đông La là một nhà phê bình chính trị nhưng tôi đặt ông vào vị trí nhà phê bình phong trào vì ông viết về nhiều đề tài, ông cho biết: “tôi viết từ khoa học, triết học, lý luận văn học, lịch sử đến chính trị xã hội”. Ông cũng là một người xông xáo trong mọi diễn đàn, không sợ đụng chạm. Trong đơn khiếu nại Hội Nhà văn Việt Nam về việc ông không được kết nạp vào Hội Nhà văn năm 2015, Đông La viết:
          “…việc Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam vừa quá bán bỏ phiếu phủ quyết đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam của tôi, không căn cứ vào tài, đức, thành quả văn chương của tôi, chỉ dựa vào thành kiến sai trái, cảm tính chủ quan, cảm tình cá nhân, đã vi phạm Nguyên lý Tập trung Dân chủ, là kết quả sai trái, không công minh và công tâm.”
Trước đoạn kết luận này, Đông La đã viết:
“ông Trung Trung Đỉnh, một đương kim Ủy viên BCH Hội Nhà văn VN, luôn ca ngợi Nguyên Ngọc, người đang trên tuyến đầu chống đối, còn định thành lập “Văn đàn độc lập”. Văn Công Hùng, một Ủy viên BCH khác của Hội Nhà Văn VN cũng ca ngợi Nguyễn Quang Lập, một nhà văn mới bị bắt và đã nhận tội,…”
 “…Hội Nhà Văn VN cũng cần ổn định như xã hội cần ổn định vậy, vẫn cần đến thế hệ Nhà thơ Hữu Thỉnh nắm trọng trách, có những sai trái yếu kém thì phải sửa, nếu không Hội Nhà Văn sẽ là mảnh đất gieo mầm và nuôi dưỡng sự phản loạn. Dương Thu Hương, Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo, Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập, v.v… đã là như thế. Vì sai trái, chỉ bằng chữ nghĩa, họ đã không làm gì được, nhưng khi quyền lực rơi vào tay những người tiếp bước họ, như những kẻ xấu hiện có trong BCH Hội Nhà Văn VN thì sẽ rất nguy hiểm!”[19]  

Hội Nhà văn đã trả lời ông rằng, lý do ông không được kết nạp năm 2015 là hồ sơ của ông nộp trễ. Không phải vì ông không đạt chuẩn về tài, đức, thành quả văn chương. Đúng vậy, năm 2016 Đông La đã được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt Nam (!)

NHÀ PHÊ BÌNH, ANH LÀ AI?

Những điều được trình bày ở trên chỉ là để làm rõ một vài đặc điểm của nhà phê bình phong trào và khắc họa đôi nét về diện mạo của một thời. Đến nay, các diễn đàn đã lắng xuống, có lẽ các nhà phê bình đã có thời gian “tĩnh tâm” để nhìn lại mình. So sánh với những tranh luận của các nhà phê bình ở đầu thế kỷ XX, các cuộc tranh luận trong những năm 1930-1945, tôi có nhiều điều ngẫm nghĩ.
Tôi luôn tin rằng, nhà phê bình phong trào ý thức rất rõ mình đang làm văn chương. Và biết rõ giá trị của trang viết của mình. Dù thế nào, trang viết của nhà phê bình cũng phải có chất “văn” (chất nhân văn, văn hóa trong tư tưởng và nghệ thuật). Nguyễn Tuân từng đề ra yêu cầu cho mình khi viết là Văn phải là văn. Thạch Lam cũng khẳng định, văn chương phải góp phần…”làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Đọc những dòng của Nguyễn Vĩnh Nguyên, Đông La,…tôi thấy lòng trĩu nặng…

Tháng 5 năm 2017

_______________________

[1] Đại hội LLPB VH lần thứ III-Đỗ Ngọc Yên.
[2] Nhà phê bình có viết phê bình? http://vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/2007/09/740441/
[2b] Hồng Thanh Quang-Nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa: Đồng hành với nhà văn
[3] Nguyễn Tý-Chân dung kẻ thua thiệt-lethieunhon.com 2009
[*] Trần Mạnh Hảo-Trả lời phỏng vấn (báo Pháp Luật Chủ Nhật số 136 ngày 06/11/2005)
“Còn việc ông nào đó quá sức đề cao tôi mà phong tôi thành Chí Phèo trong làng văn, làng báo  thì vinh dự này tôi không dám nhận đâu…ít ra Chí Phèo đã giết được cái TINH THÂM THỜI ĐẠI MÌNH LÀ BÁ KIẾN; sau đó anh ta mới tự sát. Còn tôi, làm gì anh hùng tới mức ấy. Những giáo sư soạn sách giáo khoa văn học sai mà tôi phê bình hơn trăm bài báo còn sống nhăn ra đấy, vẫn tiếp tục làm chủ tịch các hội đồng soạn sách giáo khoa, thế thì Trần Mạnh Hảo còn lâu mới trở thành Chí Phèo được, thưa các ông “
[4] Trần Ngọc Linh – VietNamNet- http://www.thotre.com/luutru/index.php?menu=detail&mid=40&nid=1090
[5] Quỳnh Thi-Vài nét ở Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ IIwww.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8259&rb=0106.
[5b] tham luận tại toạ đàm Lí luận phê bình văn học hôm nay do Văn nghệ Quân đội tổ chức- http://vietvan.vn/vi/bvct/id625/Do-phai-la-cong-viec-cua-cac-chuyen-gia-ly-luan---phe-binh-dich-thuc/
[6] http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/van-hoc-sach/20060421/nguyen-ngoc-tu-bi-kiem-diem-nghiem-khac-vi-dieu-gi/133791.html, 
[9] Nguyễn Văn Lục-Về một nhà văn bị Bóng đè:www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5823&rb=0102
[10] Dương Tử Thành-Hội thảo thơ Hoàng Quang Thuận nóng chuyện ‘tiền nhân mượn bút’.
[11] http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/tap-tho-thi-van-yen-tu-duoc-sao-chep-tu-dau-2134776.html
[12]Tranh luận quanh tiểu thuyết Hội Thề-ngày 22/04/2011 trên báo Thanh Niên: http://thanhnien.vn/van-hoa/tranh-luan-quanh-tieu-thuyet-hoi-the-331549.html.
[13] http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/van-nghe/item/23844502-nhieu-loan-sach-van-chuong-tai-ban.html.
[15] Đông La-Lê Hiếu Đằng, kẻ từng theo Đảng chống Mỹ, nay mong theo Mỹ chống Đảng - blog Đông La
[16] Đông La-Bóng tối của ánh sáng”, Nxb Hồng Đức, tr.254.
[17] Bóng tối của ánh sáng-đd-tr.316.
[18] Bùi Công Thuấn-tư liệu ghi chép Hội nghị lý luận phê bình văn học lần thứ IV.
[19] donglasg.blogspot.com/2014/12/on-khieu-nai-ve-viec-xet-on-xin-vao-hoi.html.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 12-12-17

......../.