... đuổi cái nô lệ ra khỏi đầu



Tại Lễ trao giải văn hóa Phan Châu Trinh lần thứ X diễn ra vào tối 24.3, giải Vì Sự nghiệp Văn hóa - Giáo dục được trao cho Giáo sư Cao Huy Thuần vì những đóng góp to lớn và sâu sắc cho sự nghiệp văn hóa và giáo dục Việt Nam. Người Đô Thị Online giới thiệu lược trích diễn từ nhận giải Giáo sư Cao Huy Thuần. Tựa do Người Đô Thị đặt.

Độc lập: Không chỉ đuổi lũ cướp nước mà còn phải đuổi cái nô lệ ra khỏi đầu

http://www.nguoidothi.vn/vn/news/van-hoa-giai-tri/nghe-xem-doc/7434/doc-lap-khong-chi-duoi-lu-cuop-nuoc-ma-con-phai-duoi-cai-no-le-ra-khoi-dau.ndt


Tôi rất vinh dự được Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh trao giải thưởng "Vì sự nghiệp văn hóa và giáo dục" năm 2017. Đây là một bất ngờ đối với tôi, vì vinh dự này quá lớn đối với việc làm quá nhỏ của tôi. Tôi lại là người ở xa, luôn luôn có mặc cảm vui buồn không được trực tiếp cùng chia, ấm lạnh không được trực tiếp cùng cảm với bạn bè anh em trong nước: thiếu sự sống trực tiếp ấy, hai chữ "sự nghiệp" không khỏi làm tôi áy náy. Tôi đành nghĩ: khi trao giải thưởng này cho người ở xa, các anh chị trong Hội Đồng muốn nói rằng văn hóa là văn hóa, văn hóa Việt Nam là văn hóa Việt Nam, không có văn hóa Việt kiều, cũng như không có quốc tịch Việt kiều.

Giáo sư Cao Huy Thuần 

Có lẽ câu nói vừa rồi của tôi là một câu nói đùa để che giấu cảm động. Nhưng quả thực, đó là một câu nói tâm tình, bởi vì có khi người ở xa cảm thấy mình là Việt Nam hơn lúc ở gần. Ở gần thì ai cũng giống ai. Ở xa thì thường xuyên thấy mình khác với xung quanh. Chính cái khác đó tạo ra cái mà ta gọi là bản sắc, bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc. Người ở xa không phải chỉ tha thiết với bản sắc như một khái niệm trừu tượng. Người ở xa thấy mình ăn, mặc, thương, ghét, nói, cười với cái bản sắc ấy cụ thể như cái bóng đi theo cái hình.
Tôi biết tôi động đến một khái niệm khó định nghĩa. Có người nói đó là một khái niệm không khoa học. Có người nói đó là một khái niệm ý thức hệ. Tuy vậy, có ai dám nói rằng không có bản sắc? Có ai không tự đặt ra cho mình câu hỏi đầu tiên: "tôi là ai?" Câu hỏi đặt ra là vì có "tôi" và có "người khác". Không có "người khác" thì không có "tôi". Rồi tôi lại tự hỏi: tôi là tôi vì tôi nhìn tôi như thế, hay tôi là tôi vì như thế người khác nhìn tôi? Nếu tôi nhìn tôi qua cái nhìn của người khác, phải chăng có người khác giữa tôi với tôi? Câu hỏi ấy chảy máu trong lòng người ở xa. Tôi xa tôi rồi chăng?
Câu hỏi ấy cũng cần chảy máu trong lòng một dân tộc khi dân tộc ấy vọng ngoại. Khi dân tộc ấy không còn thấy cần thiết phải đặt ra câu hỏi "tôi là ai?". Khi dân tộc ấy không biết mình là khác. Khi dân tộc ấy nhập nhằng giữa tôi và người. Tôi khác anh: bản sắc bắt đầu tự định nghĩa với khẳng định quyết liệt ấy. Với chữ "khác". Khác! Như một tiếng quát. Quát vào mặt kẻ nào muốn đồng hóa. Như một tiếng sấm. Sấm trong lịch sử. Nổ trong Bình Ngô Đại Cáo:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nước non bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Cái gì là cốt lõi trong cái "khác" đó? Văn hiến. Văn hóa. Và cái gì là cốt lõi trong văn hóa? Phong tục. Anh đừng đem Khổng Mạnh ra để nói với tôi rằng tôi giống hệt anh, tôi là con đẻ của anh. Anh cũng đừng đem chữ viết ra để nói rằng tôi nhân chi sơ là sờ vú anh. Văn hóa của tôi không phải là văn hóa của anh bởi vì phong tục của tôi không phải là phong tục của anh. Và thế nào là phong tục? Là cách sống. Văn hóa là cách sống. Là cách ăn cách mặc. Là nước mắm. Là tiếng ru em. Là ca dao. Là lễ hội. Là chùa chiền. Là làng xóm. Là thói quen. Là ký ức chung. Là ý thức tập thể. Là tất cả những gì liên quan đến đời sống của một dân tộc, vật chất cũng như tinh thần. Nói "phong tục" là lấy cái khác nhất của Đại Việt so với chàng kia mà nói, chứ "phong tục" chính là "văn hiến" đã đại cáo ở trên. Và văn hiến ấy, Đại Việt ta đây đã có "từ lâu", nghĩa là đã đi vào lịch sử, nghĩa là đã truyền lại đời này qua đời kia, truyền từ khi nhà ngươi tưởng đã nuốt sống ta trong ngót ngàn năm dằng dặc.
Trên thế giới, không có một nước nào so được với Đại Việt về cái rễ văn hóa sâu thẳm ấy. Châu Âu muốn so với ta? Châu Mỹ muốn so với ta? Có nước nào trong các bạn đẻ ra được, duy trì được, củng cố được, truyền thừa được, ấp ủ được một cái trứng văn hóa trong suốt ngàn năm đồng hóa trước khi có bờ cõi? Bản sắc là cái gì nếu không phải là cái trứng kỳ lạ ấy? Cho đến thế kỷ 18, các bạn ở châu Âu mới thấy xuất hiện cái tư tưởng rằng văn hóa là cái "tinh yếu" ("essence") dính chặt vào một dân tộc, và từ đó mỗi dân tộc có một "thần khí" ("génie") riêng biệt, khác với các dân tộc khác. Nhưng lúc đó các bạn đã có bờ cõi, đã thành lập xong cái mà lịch sử gọi là Etat-Nation, dân tộc nào có Nhà nước ấy. Trong bờ cõi đã phân chia ranh giới địa dư, các bạn mới xây dựng dân tộc văn hóa song song với dân tộc chính trị. "Dân tộc nào có bờ cõi ấy" và "dân tộc nào có văn hóa ấy", hai tư tưởng đó củng cố lẫn nhau.
Nghĩa là lúc đó các bạn chưa có một văn hóa dân tộc, các bạn phải lần hồi xây dựng văn hóa đó, khác với Đại Việt đã có cái trứng văn hóa từ lâu trước khi nở ra thành rồng Thăng Long. Cho nên chúng tôi không phải đợi cho đến thế kỷ 18, 19 mới quan niệm, như các tư tưởng gia ở Đức, văn hóa là cái "hồn" của mỗi dân tộc, là "Volksgeist". Định nghĩa chính xác cái "hồn" ấy là gì, đúng là khó. Nhưng khó, không có nghĩa là phủ nhận cái "hồn". Bởi vì không có hai dân tộc nào cùng có một văn hóa giống hệt nhau. Nếu có tình trạng đó thì cả hai chỉ có thể hợp thành một dân tộc. Vì vậy, vì mỗi văn hóa có một sắc thái đặc biệt, văn hóa quyết định bản sắc của mỗi dân tộc. "Tát cạn văn hóa ra khỏi một dân tộc - nghĩa là tát cạn ký ức và sắc thái độc đáo ra khỏi dân tộc đó - tức là giết chết dân tộc đó". Tôi mượn câu nói ấy của Milan Kundera.
Với cái "hồn" ấy, tôi hiện hữu, tôi là tôi. Tôi nhận máu huyết từ trong đó. Tôi thở với hơi thở ấy. Nhưng cái đầu của tôi dạy rằng văn hóa là một khái niệm động, vừa như thế, vừa biến chuyển với thời gian. Không văn hóa nào sống biệt lập, tách biệt với các văn hóa khác. Chung đụng, tiếp xúc với nhau, các nền văn hóa ảnh hưởng lên nhau, mỗi cái "tôi" của văn hóa này phải vừa canh chừng để đừng bị "cái khác" làm biến chất, lại vừa bị quyến rũ bởi "cái khác" khi nhận ra "cái khác" có những ưu điểm mà mình không có, cái "tôi" của mình có những nhược điểm mà mình cứ gối đầu lên ngủ, bất kể nhục vinh. Và như vậy, tôi vừa là con cháu của Nguyễn Trãi, vừa là con cháu của Phan Châu Trinh. Của Phan Châu Trinh khi Tây Hồ rơi vào thân phận Việt kiều, làm "người Việt ở nước ngoài". Nhưng chính nhờ ở nước ngoài mà ông chạm mắt vào "cái khác" và ông thấy cái nô lệ nằm ngay trong văn hóa.
Tôi mượn một câu của anh Vĩnh Sính, người bạn học giả mà tác phẩm từng được giải Phan Châu Trinh: "So với những trí thức cùng thời, kể cả Phan Bội Châu, tinh thần yêu nước của Phan Châu Trinh có điểm nổi bật là rất bén nhạy về điều hay cái lạ ở nước ngoài cũng như về những nhược điểm về văn hóa và xã hội mà con người Việt Nam cần khắc phục". Từ đó mà bật ra phương châm "dân khí", "dân trí". Và dân chủ. Và dân chủ. Phan Châu Trinh là sĩ phu đầu tiên hô hào dân quyền. Huỳnh Thúc Kháng nói thế. Anh Vĩnh Sính tiếp theo: "Bởi vậy, khi đọc lại những lời Tây Hồ viết vào đầu thế kỷ trước, ta vẫn nghe sang sảng tựa hồ như tiên sinh đang đăng đàn diễn thuyết đâu đây".
Tôi đang nghe sang sảng bên tai những Lư Thoa, những Mạnh Đức Tư Cưu, những Vạn Lý Tinh Pháp, những Khai Sáng Thế Kỷ, những Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Những tư tưởng mới làm choáng ngợp cái đầu rạng đông của Phan Tây Hồ. Chỉ giới hạn trong quan niệm về dân tộc mà tôi đang nói đây, tôi nghe sang sảng, như tiên sinh đã nghe, định nghĩa bất hủ của Renan, trong đó vừa có Nguyễn Trãi của tôi, vừa có Phan Châu Trinh của thời đại mới, vừa có quá khứ vừa có hiện tại, vừa có Herder của Lãng Mạn Đức, vừa có Rousseau của "Khế ước xã hội":
"Dân tộc là một linh hồn, một nguyên tắc tâm linh. Hai yếu tố, thật ra chỉ là một, tạo nên linh hồn ấy, nguyên tắc ấy. Yếu tố thứ nhất nằm trong quá khứ, yếu tố thứ hai nằm trong hiện tại. Yếu tố thứ nhất là cùng có chung một gia tài kỷ niệm phong phú, yếu tố thứ hai là sự thỏa thuận hiện tại, ý muốn cùng sống, hoài bão cùng tiếp tục khai triển gia tài chung đã nhận. Con người không tự nhiên mà thành người. Một dân tộc, cũng như một cá nhân, là thành quả của một quá khứ lâu dài làm bằng nỗ lực, bằng hy sinh, bằng tận tụy. Thờ kính tổ tiên là chính đáng hơn tất cả; chính tổ tiên làm chúng ta thành ra chúng ta. Một quá khứ anh hùng, những vĩ nhân, vinh quang, đó là cái vốn xã hội trên đó ta tạo dựng một ý tưởng dân tộc. Cùng có những vinh quang chung trong quá khứ, một ý chí chung trong hiện tại, đã cùng nhau làm nên những công việc to lớn, vẫn còn muốn làm như thế nữa: đó là những điều kiện thiết yếu để là một dân tộc. Hy sinh đã làm càng cao, khổ sở đã chịu càng lớn, thương yêu càng nhiều. Ta thương cái nhà mà ta đã xây và đã truyền lại. "Ta bây giờ là hình ảnh của cha ông ngày trước; ta ngày mai sẽ là hình ảnh của cha ông ngày nay", câu hát đó của dân Sparte ngày xưa đơn giản như thế nhưng tóm tắt được thế nào là tổ quốc".
Và đây là hiện tại được nhấn mạnh. Hiện tại mà Phan Châu Trinh hoài bão qua hai chữ "dân quyền":
"Như vậy, một dân tộc có một quá khứ, nhưng tóm gọn trong hiện tại bằng một sự việc cụ thể: thỏa thuận, ý muốn tiếp tục cùng sống chung được biểu lộ rõ ràng. Dân tộc là một cuộc bỏ phiếu hồ hởi hằng ngày".
"Một cuộc bỏ phiếu hồ hởi hằng ngày". "Un plébiscite de chaque jour": lịch sử nước Pháp ghi khắc câu nói ấy. Lịch sử của các nước tiến bộ văn minh cũng ghi khắc câu nói ấy. Bởi vì câu nói ấy chứa đựng tất cả tinh túy của một văn hóa, một văn minh không riêng của một dân tộc nào mà chung cho cả mọi dân tộc. Vì câu nói ấy, vì tinh túy trong ý nghĩa của nó, mà Phan Châu Trinh khác Phan Bội Châu. Đất nước độc lập, không phải chỉ đuổi lũ cướp nước là xong. Phải đuổi cái nô lệ ra khỏi cái đầu. Bạo lực có thể đạp đổ bạo lực. Nhưng bạo lực nào cũng có khuynh hướng thay thế bạo lực cũ để thống trị bằng cách nô lệ hóa cái đầu. Phan Châu Trinh đã đi trước thời đại bằng lời lẽ thống thiết kêu gọi phải thắp sáng cái đầu của người dân. Bởi vì thời độc trị của vua chúa đã qua rồi.
Cái nguyên tắc mà Renan gọi là "tâm linh" ("spirituel") không có gì là siêu hình cả, trái lại rất cụ thể. Đó là người dân. Mỗi người dân. Mọi người dân. Mỗi người dân nắm vận mệnh của mình và của dân tộc mình. Bằng thỏa thuận. Như thỏa thuận khi ký một hợp đồng. Dân tộc là linh thiêng, bởi vì trong lòng mỗi người dân đều có cái "hồn" của tổ tiên, nhưng dân tộc chỉ trường tồn trong hiện tại, trong tương lai, khi chính người dân, chứ không phải một ai khác trên cao xanh, cùng nhau thỏa thuận về vận mệnh của đất nước. Sự thỏa thuận ấy, tất nhiên biểu lộ bằng lá phiếu, và lá phiếu chỉ là lá phiếu khi trung thực. Không có trung thực thì không có thỏa thuận. Nhưng chữ "plébiscite" của Renan không có nghĩa tầm thường của một cuộc trưng cầu dân ý. Bởi vì trưng cầu dân ý cụ thể là con số: 51%, 65%, 70%, vân vân. "Plébiscite", trong cái nghĩa của Renan, không phải đo bằng con số. Đo trong lòng người, người dân nào cũng biết đo và đo rất chính xác, trung thực.
Siêu hình chăng? Cam đoan không. Cứ hỏi mỗi người Việt Nam có biết đo không, câu trả lời sẽ rất giản dị. Đừng dối nhau làm gì, có thời chúng ta đã từng nghe: cái cột đèn cũng muốn đi. Và bây giờ lại nghe nói: ai có chút tiền đều một chân trong chân ngoài. Một dân tộc sống với cái đầu hoài nghi, cái chân bỏ phiếu, là một dân tộc đang tự thắp nhang cho mình, làm mồi cho cú vọ. Nếu ai có chút tiền đều muốn đưa con ra ngoài để học rồi để ở lại, thì tim đâu để máu chảy về? Thì đâu còn định nghĩa được tôi là ai? Thì lấy người khác làm mình. Thì đâu là "dân khí"? Cái "hồn" nằm ở đâu?
Ngoại xâm trước mắt đâu phải chỉ lấn đất lấn biển. Nó lấn cái đầu. Cái đầu ấy, ngoại xâm muốn ta giống nó. Nó rất sợ ta khác nó. Nó muốn ta giống nó bằng văn hóa, bằng ý thức hệ. Nó sợ ta khác nó với Phan Châu Trinh. Bởi vì chỉ cần ta định nghĩa ta là Phan Châu Trinh, ta có cái đầu văn hóa mở ra với những chân trời khác, những bình minh khác cùng sáng lên hai chữ "dân quyền", chỉ cần thế thôi, chỉ cần cái đầu văn hóa ấy thôi, vận mệnh của đất nước Việt Nam sẽ đổi khác về mọi mặt, bắt đầu là mặt chiến lược. Vì sao? Vì định nghĩa ai là bạn ai là thù bắt đầu từ đâu nếu không phải là từ anh khác tôi, tôi khác anh của Nguyễn Trãi?
Chỉ cần thế thôi, một bước ấy thôi, dân tộc chờ đợi từ thời Phan Châu Trinh. Chỉ cần một câu trả lời với Renan: Vâng, đúng thế, dân tộc là sự giao thoa của hai thỏa thuận song song: thỏa thuận giữa người dân với nhau cùng sống cùng chết trên cùng mảnh đất của tổ tiên; thỏa thuận giữa người dân với chính quyền để cùng nhau đảm đương việc nước. Một bước. Cả vận mệnh nằm trong một bước. Bước đi! Cái "tôi" của ngày nay, cái "ta" kiêu hùng, cả tổ tiên nằm trong môt bước.
Trong tâm tình trên đây của tôi về dân tộc, tôi xin được kết thúc, rất ngắn, với chút tâm tình về đạo Phật của tôi, vì hai tâm tình chỉ là một, hòa quyện vào nhau trong toàn bộ chữ viết của tôi. Có lần trả lời cho báo Lao Động, tôi nói: tất cả những gì tôi viết đều là thư tình, tình thư tôi gửi về quê hương, dù khi nói về đời, dù khi nói về đạo. Có một con chim bị đâm gai, nằm chảy máu dưới một bông hoa trắng, và hoa trắng đã thành hoa hồng. Đó là hoa hồng tôi hiến tặng cho đất nước của tôi từ xa.
Dân tộc tôi, nếu muốn định nghĩa về bản sắc của mình, không thể không nói đến đạo Phật. Vì đạo Phật thiết yếu như vậy cho sự sống còn văn hóa của dân tộc tôi, nếu chùa chiền biến chất trong một hiện tại đầy hoài nghi về văn hóa và giáo dục này, nếu đạo Phật cũng héo hon theo, thì cái hồn của quá khứ cũng tủi, mà hiện tại cũng bơ vơ bản sắc. Như một con én không để mất mùa xuân, tôi không muốn thấy đạo Phật của dân tộc tôi bị lão hóa với thời đại kim tiền, tôi muốn đạo Phật của tôi vẫn là nhựa sống của tuổi trẻ, của các bậc cha mẹ, của mọi gia đình. Nhựa ấy muôn đời vẫn thế, vẫn còn đấy, nhưng để làm cho nó chảy trong cành tươi, con chim nhỏ bị gai đâm chỉ còn biết chảy máu theo mà thôi, trong chữ viết.
Trung thành với đạo Phật của tôi, trung thành với dân tộc của tôi, tất cả những gì tôi viết, dù là nước mắm, dù là tương chao, dù là văn hóa, dù là giáo dục, đều nhắm đến một lý tưởng, lý tưởng của Phan Châu Trinh: Tiến Bộ. Đừng tưởng đạo Phật không cần tiến bộ. Không tiến bộ thì xa lìa đời sống. Còn dân tộc, khỏi nói, không tiến bộ thì thế giới đạp lên xác pháo. Nhưng đạo Phật biết một cái rất quý nói trong kinh Pháp Hoa: một viên ngọc giấu trong áo cũ. Áo cũ phải thay, viên ngọc vẫn giữ. Dân tộc của tôi, nghẹn ngào mà nói, có ngọc quý mà không giữ, lấy cuội của người làm ngọc của mình, gắn lên vương miện.
Thôi, tôi xin kết luận thôi. Tôi định nghĩa thế nào đây về tôi? Tôi là ai? Dân tộc tôi là ai? Là gì? Là thế nào? Nếu không định nghĩa được bằng khẳng định, thôi thì ta tạm định nghĩa bằng phủ định: Tôi không phải như thế này, tôi đáng lẽ phải là thế khác. Dân tộc tôi xứng đáng hơn thế này. Dân tộc tôi chưa xứng đáng với tổ tiên.

Cao Huy Thuần
........../.


Những nghịch lý chết người hay bi kịch của một quốc gia



Những nghịch lý chết người
hay bi kịch của một quốc gia


Nguyễn Quang Dy


“Chính trong những khoảnh khắc đen tối nhất, ta phải tập trung để thấy được ánh sáng”   (It is during our darkest moments that we must focus to see the light - Aristotle)

Một số nghịch lý chết người có thể làm chính trị suy đồi và kinh tế tụt hậu, dẫn đến bi kịch quốc gia. Nguyên nhân chính là do hội chứng cực đoan và ngộ nhận, vì cực đoan thường dẫn đến vô cảm và ngộ nhận thường dẫn đến vô minh. Vô cảm và vô minh vốn là bi kịch lớn của con người, như một căn bệnh mãn tính rất khó chữa. 

Tại các nước đang chuyển đổi (nhưng “không chịu phát triển”), cực đoan và ngộ nhận cản trở cải cách thể chế và hòa giải dân tộc, bỏ qua những cơ hội sống còn để phát triển, làm đất nước ngày càng suy yếu, cạn kiệt, và phụ thuộc, dễ mất độc lập và chủ quyền. Vì vậy, muốn thoát khỏi vấn nạn đó, để “kiến tạo” và phục hưng đất nước, người Việt phải nâng cao dân trí và đổi mới tư duy, để cải cách thể chế và dân chủ hóa.   

Nhưng trong bối cảnh phân hóa nội bộ hiện nay, ai ủng hộ và ai chống lại cải cách thể chế? Theo Lê Kiên Thành, “Nếu những người có chức có quyền giàu lên nữa thì đất nước này sẽ sụp đổ… Chúng ta sẽ phải đứng về một phía chống lại 1/3 chúng ta, mà 1/3 này là những người vừa có tiền vừa có quyền, những người đang được hưởng lợi từ thể chế hiện giờ... Đó là những nghịch lý mà chúng ta đang phải đối mặt”.

Cực đoan và hận thù hay “tù nhân của quá khứ” 

Khi xem xét lại chiến tranh Việt Nam, người ta nhận ra “một cuộc chiến sai lầm, sai lầm về địa điểm, sai lầm về thời điểm, và sai lầm về địch thủ” (a wrong war, at the wrong place, at the wrong time, with the wrong enemy – John Kennedy, Oct 13, 1960). Đó là một bài học lịch sử cho cả hai bên, vì ngộ nhận dẫn đến nghịch lý chết người. Phải chăng lịch sử có thể rẽ ngả khác, nếu John Kennedy nghe lời khuyên của George Ball (thứ trưởng ngoại giao, đã khuyên tổng thống đừng đưa quân vào Việt Nam). Những người “thông minh tài giỏi nhất” (the best and the brightest) cũng có thể ngộ nhận và mắc sai lầm.   

Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc hơn bốn thập kỷ, nhưng bóng ma Việt Nam vẫn còn ám ảnh hai đất nước, và hai thế hệ người Mỹ cũng như người Việt. Tuy hai nước cựu thù đã bình thường hóa và trở thành đối tác toàn diện, nhưng hai cộng đồng người Việt đến nay vẫn chưa thể hòa giải được. Thậm chí trong cùng một cộng đồng, các phe phái cũng coi nhau như thù địch, dùng bạo lực để triệt hạ lẫn nhau. Vì vậy mới có bi kịch “Terror in Little Saigon” và “tiếng súng Yên Bái”, như một nghịch lý của người Việt.   

Những người cộng sản cực đoan và những người chống cộng cực đoan thực ra rất giống nhau, vì họ đều độc tài, không chấp nhận ai nghĩ khác mình, nói khác mình. Chính họ đã tiếp tay cho nhau, ngăn cản hòa giải và đổi mới. Chừng nào những ân oán của hai bên chưa được hóa giải,  cực đoan và hận thù (chứ không phải ôn hòa và nhân ái) còn ngự trị trong tâm thức họ như “tù nhân của quá khứ” thì bi kịch này còn tiếp diễn.  

“Kinh tế thị trường định hướng XHCN” hay “Frankenstein”  

Suốt bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, tuy trải qua bao biến động trên thế giới và trong nước, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì định hướng XHCN, vẫn “đi tìm cái không có” (như lời Bộ trưởng Bùi Quang Vinh). Chính là cực đoan và ngộ nhận đã xô đẩy Việt Nam vào bãi lầy ý thức hệ, nên vẫn loanh quanh tại ngã ba đường.  

Chủ nghĩa tư bản hoang dã hay chủ nghĩa xã hội thân hữu, về bản chất đều như nhau, đã đi đêm và đẻ ra cái quái thai “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nay trở thành Frankenstein đang thao túng quyền lực, làm đất nước suy yếu và tụt hậu. Nói cách khác, các nhóm lợi ích đã trở thành “tư bản đỏ”, thao túng quyền lực và lũng đoạn chính sách, tạo ra bất ổn vĩ mô, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia, gây ra thảm họa môi trường, đẩy đất nước đến chỗ hỗn loạn, dễ mất chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc.
   
Trước vấn nạn nợ công khổng lồ, như một đám mây đen lớn đang đe dọa làm vỡ nợ quốc gia, chính phủ kiến tạo không thể tiếp tục đầu tư tràn lan vào những dự án lợi bất cập hại, duy trì các tập đoàn nhà nước thua lỗ và tham nhũng. Làm sao có thể kiến tạo và chống tham nhũng nếu không đổi mới thể chế toàn diện để triệt tiêu nguyên nhân gốc rễ? Chính phủ không thể bảo lãnh mãi cho con tàu đắm Vinashin và các “quả đấm thép” (nợ đến 237 tỷ USD, bằng 120% GDP), trong khi ngân sách phải “chạy ăn từng bữa”. 

Liệu có “ổn định chính trị” nếu bất ổn về kinh tế

Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, nợ công của Việt Nam không phải chỉ sát ngưỡng báo động 65% GDP (khoảng 94,8 tỷ USD). Nếu tính cả nợ của các doanh nghiệp nhà nước (được chính phủ bảo lãnh) thì nợ công lên tới 210% GDP, và nợ xấu lên đến 11% GDP (khoảng 22 tỷ USD). 
Trong khi đó dự trữ ngoại hối chỉ có 40 tỷ USD (theo Ngân hàng Nhà nước), nhưng 1/3 trong số đó là trái phiếu chính phủ Mỹ (không khả dụng).

Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP), nguồn kinh phí chi cho các tổ chức công chiếm 1,7% GDP (khoảng 71,000 tỷ VNĐ). Trong khi đó hàng năm Viêt Nam phải trả nợ đến hạn (20 tỷ USD năm 2015, và 12 tỷ USD năm 2016). Trong tháng 11/2016, Chính phủ phải vay tới 17 tỷ USD để chi thường xuyên cho 11 triệu người ăn lương ngân sách và trả lãi các khoản vay đến hạn, thâm hụt ngân sách hàng trăm ngàn tỷ VNĐ/tháng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cảnh báo khả năng “sụp đổ tài khóa quốc gia”.

Dù Bộ Tài Chính có bán hết vốn các doanh nghiệp lớn mà nhà nước nắm cổ phần, cũng chỉ thu về được 7 đến 15 tỷ USD, chỉ đủ chi ngân sách từ một tháng rưỡi đến ba tháng. Trong khi đó  kiều hối năm 2016 giảm 30% (khoảng 3 tỷ USD). World Bank tuyên bố chấm dứt ODA cho Việt nam vào tháng 7/2017 (tiếp theo sẽ là ADB).  

Bức tranh kinh tế hiện nay làm người ta liên tưởng đến Venezuyela.  Nếu Trung Quốc không thể cứu Venezuyela (lạm phát tới 700%), liệu họ có thể cứu Việt Nam? Theo Financial Times (4/2016) nợ công Trung quốc năm 2016 tăng vọt lên 237% GDP (khoảng 28 ngàn tỷ USD). Trong khi đó dự trữ ngoại hối (tính đến đẩu 2017) đã giảm xuống còn khoảng 3000 tỷ USD, nhưng chỉ một nửa số đó là khả dụng (theo Gordon Chang).  

“Tập trung dân chủ” hay “tam quyền phân lập”

Làm sao để “kiểm soát quyền lực”, nếu không áp dụng “Tam quyền phân lập”?  Cái gì đã tạo ra bộ máy hành chính quan liêu khổng lồ, chồng chéo và bất cập?  Làm thế nào để “nhất thể hóa” nếu Đảng vẫn độc quyền lãnh đạo, không dựa trên “pháp quyền” (rule of law)? Trên thế giới không có chính phủ nào có nhiều bộ trưởng và thứ trưởng như Viêt Nam (22 bộ trưởng và 130 thứ trưởng). Chính phủ Mỹ và Nhật cũng chỉ có 15-16 bộ trưởng và 16 thứ trưởng. Làm thế nào để giảm chi tiêu ngân sách, nếu Việt Nam vẫn duy trì hai bộ máy hành chính khổng lồ, với những “tổ chức quần chúng” phi sản xuất và ăn bám?

Mô hình nhà nước do một Đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện, theo thể chế “tập trung dân chủ” đã lỗi thời và bất cập trước yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ xã hội. Nếu muốn “kiến tạo” và chấn hưng đất nước, để đối phó với những nguy cơ và thách thức mới, Viêt Nam phải “cải cách vòng hai” bằng cách đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm cải cách thể chế chính trị và hiến pháp, theo hướng “tam quyền phân lập”.  

“Theo Tàu hay theo Mỹ” là tâm thức đầy ngộ nhận

Trước đây Việt Nam đã phải đối phó với nan đề “theo Liên Xô hay theo Trung Quốc”. Có lúc Viêt Nam đã “theo cả hai” bằng cách cân bằng để tranh thủ nguồn lực chống Mỹ (trước 1975). Có lúc Việt Nam đã theo Liên Xô để chống Trung Quốc (giai đoạn 1979-1989). Thậm chí Việt Nam đã từng ghi vào Hiến pháp rằng Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” (mà Nayan Chanda chơi chữ gọi là “Brother Enemy”).

Nhưng rồi sau đó Việt Nam lại “xoay trục” theo Trung Quốc tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ vàng”. Đó là quyết sách cực đoan do ngộ nhận về bạn thù và ý thức hệ, mà quên mất “chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Khi Washington bắt tay với Bắc Kinh (từ 1972) họ đã bỏ rơi Đài Loan và Nam Việt Nam, mặc cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa (1974). Khi Moscow hòa hoãn với Bắc Kinh, họ cũng mặc cho Trung Quốc đánh chiếm Gac Ma và 4 đảo Trường Sa (1988), tuy họ là “đồng minh chiến lược” với ta. Đó là những bài học đau đớn để chúng ta đừng ngộ nhận và ngây thơ về quan hệ các nước lớn.      
      
Muốn độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền quốc gia, phải dựa vào sức mạnh nội lực là chính.  Muốn vậy phải hòa giải dân tộc và cải cách thể chế để “khai dân trí”, giải phóng năng lượng yêu nước và tinh thần dân tộc, “chấn dân khí” để phục hưng đất nước. Chính sách “cân bằng thụ động” (“đu dây” bằng nguyên tắc “ba không”) tuy cần thiết như một sách lược (nhất thời) để đối phó tình huống, nhưng “cân bằng tích cực” mới là chiến lược (lâu dài).       

Người Việt phải học hỏi người Đức về hòa giải dân tộc và thống nhất đất nước. Phải cải cách thể chế và dân chủ hóa mới chấn hưng được đất nước, để đối phó với những biến động chính trị bất thường và bất định (như Brexitism và Trumpism). Muốn “cân bằng tích cực” với Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam phải tăng cường hợp tác chiến lược với các cường quốc khu vực (như Nhật, Ấn Độ, Úc) trong một khuôn khổ đối tác chiến lược mới.

“Còn Đảng còn mình” hay chuẩn bị tháo chạy 

Theo IOM (International Organization for Migration) sau 25 năm tính từ 1990 đến 2015, đã có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài, tính trung bình mỗi năm có khoảng 100.000 người Việt di cư.  Việt Nam nằm trong “Top 10” các quốc gia có số du học sinh nhiều nhất thế giới.
Trong tổng số trên 4,5 triệu người Việt đã di cư (tính đến 2015), số người định cư bằng đầu tư đang tăng lên đáng kể. Chỉ riêng loại visa EB-5 (dành riêng cho các đối tượng đầu tư vào Mỹ) đã tăng chóng mặt so với các loại visa khác (như EB-1, EB-2). Số lượng visa EB-5 từ 6.418 suất (năm 2014) đã tăng vọt lên 17.662 suất (năm 2015). 

Đến nay, Viêt Nam có 21,000 du học sinh ở Mỹ, trong đó đa số là con em các gia đình quan chức cao cấp và trung cấp. Hồ sơ Panama tiết lộ Việt Nam có tới 189 cá nhân và tổ chức, với 19 công ty vỏ bọc được thành lập ở nước ngoài, chủ yếu là tại các “thiên đường trốn thuế” (như Cayman và Virgin Islands). Sau khi ông Trump thay đổi chính sách nhập cư vào Mỹ, nhiều người Việt chuyển hướng di cư sang Canada và Australia. Người Việt Nam (cũng như người Mỹ) đang đối mặt với quá nhiều biến số và ẩn số.

Tại hội thảo “Kịch bản Kinh tế Viet Nam 2017” (tp HCM, 9/3/2017) tiến sỹ Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế) đã cảnh báo về tình trạng “tẩu tán tư bản”, với số triệu phú người Việt di cư ra nước ngoài ngày càng tăng. Ngoài dòng tiền đầu tư chính đáng ra nước ngoài, còn có dòng tiền chạy ra ngoài bất hợp pháp theo dòng người di cư, trong đó nhiều triệu phú là quan chức đã có sẵn kế hoạch bỏ chạy (một khi bị truy cứu trách nhiệm). Đến nay, tổng cộng đã có 92 tỷ USD được chuyển phi pháp ra khỏi Viêt Nam.




Lượng tiền bất hợp pháp chảy khỏi Việt Nam từ năm 2004 đến 2013. (Nguồn GFI).




“Hoàng hôn nhiệm kỳ” hay tranh thủ vơ vét  

Các nhóm lợi ích tranh nhau vơ vét, chia chác mọi thứ, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia. Họ “ăn không từ một cái gì” (theo lời phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan). Hết nạc họ vạc đến xương. Sau khi đã bán rẻ Vũng Áng cho Formosa, họ định bán nốt Cà Ná. Sau khi đã ăn hết dầu khí, than, thủy điện, bauxite, vonphram, ruộng đất…làm rừng vàng biển bạc cạn kiệt, họ tìm cách ăn nốt cát nhiễm mặn. Phải chăng dự án thép Cà Ná và chủ trương khai thác cát để xuất khẩu là “làn ranh đỏ” (red line) của thực trạng “hoàng hôn nhiệm kỳ”? 

Năm 2010, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký văn bản cấm xuất khẩu cát nhiễm mặn. Nhưng đến 2013, Bộ Xây dựng lại cho phép xuất khẩu cát nhiễm mặn qua hình thức “xã hội hóa” với lý do “nhằm tiết kiệm chi phí nạo vét thông luồng”. Đây là nhiệm vụ của Bộ Giao thông Vận tải dùng ngân sách để làm, tại sao phải “xã hội hóa” để các doanh nghiệp khác thác cát tràn lan, tiếp tay cho các nhóm lợi ích bán rẻ nốt tài nguyên quốc gia? 

Theo phóng sự điều tra nhiều kỳ của báo Tuổi trẻ (1-3/3/2017), hầu hết các tàu chở cát từ Phú Quốc đều đến Singapore (đảo Tekong và Changi). Từ năm 2013 đến cuối năm 2016, Việt Nam đã xuất 43 triệu m3 cát. Theo các hợp đồng xuất khẩu, giá bán cát chỉ từ 0,8 đến 1,3 USD/khối, trong khi giá bán trên thực tế là hơn 4 USD/khối. Vậy chênh lệch giá đi đâu? Việt Nam không chỉ mất tài nguyên cát, thất thu ngân sách (vì giá bán cát trên giấy tờ là quá thấp), mà còn gây sụt lở ngiêm trọng, và nguy hại cho an ninh quốc gia.  

Theo số liệu thống kê, từ năm 2016 Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng và các địa phương (là “chủ đầu tư”) đã phê duyệt 40 dự án nạo vét, tận thu một khối lượng cát khoảng 250 triệu m3. Dẫn đầu hoạt động “xã hội hóa” này là Bộ Quốc Phòng và chính quyền 11 tỉnh ven biển: Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Ðịnh, Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh. Cuộc chiến giành quyền nạo vét cát không chỉ dọc các tỉnh ven biển, mà còn trên các dòng sông. Tranh chấp tại Sông Cầu giữa Bắc Ninh và Bộ GTVT là “phần nổi của tảng băng chìm”.  

Ngoài Singapore, Trung Quốc cũng tích cực thu mua cát giá cao nhằm bồi đắp các đảo, đá mà họ chiếm của Việt Nam. Các hoạt động nạo vét, bồi đắp các đảo nhân tạo, nhằm mở rộng diện tích các đảo, đá mà họ chiếm đóng trái phép (như Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga Ven và Ken Nan) đã diễn ra với quy mô lớn. Từ năm 2014, diện tích các đảo, đá mà họ chiếm tại Biển Đông đã tăng lên 400 lần (tương đương 800ha). Vậy họ lấy cát ở đâu? Không loại trừ doanh nghiệp của ta đã lặng lẽ bán cát cho họ. Nếu đúng là có chuyện này, thì đó có phải là hành động phản quốc? Không thể vừa bảo vệ chủ quyền quốc gia, vừa dung túng cho những kẻ làm tay sai cho ngoại bang (như Formosa & MCC, Huawei & OPPO).     

Như trước khi con tàu đắm  

Theo Wikileaks (6/1/2017), có khoảng 65% quan chức cấp cao đã có kế hoạch chạy khỏi Việt Nam (một khi có biến). Như đã thành thông lệ, khi có quan chức tham nhũng nào bị “sờ gáy”, là lại nghỉ phép trốn ra nước ngoài “chữa bệnh” (không biết bệnh gì). Kèm theo dòng người di cư là dòng vốn đi theo. Chỉ tính riêng năm 2015, đã có 19 tỷ USD chạy ra khỏi Việt Nam. Đó là hiện tượng tẩu tán vốn hay “bỏ phiếu bằng chân”, trước thực trạng của đất nước ngày càng bi đát như hình ảnh con tàu Vinashin đang chìm.   

Bức tranh Viêt Nam là một bản sao bức tranh Trung Quốc. Theo phó chủ tịch nước TQ Lý Nguyên Triều (Đại Kỷ Nguyên, 30/12/2016), điều tra nội bộ trước đại hội Đảng 18 cho thấy trên 85% quan chức cấp cao đã cho vợ con định cư, mua nhà ở nước ngoài, chuẩn bị ra đi trước nguy cơ “vong Đảng”. Theo Reuters, dự trữ ngoại hối đã giảm 70 tỷ USD (trong tháng 11/2016) và 41 tỷ USD (trong tháng 12/2016), nay chỉ còn 3.010 tỷ USD. 

Mỹ không còn là địa chỉ an toàn để rửa tiền tham nhũng. Liệu chính quyền Trump có triển khai “Luật Nhân Quyền Magnisky” (mà ông Obama đã ký) nhằm cấm nhập cảnh và đóng băng tài sản của những người vi phạm nhân quyền? Liệu chính phủ Việt Nam có tiến hành một chiến dịch “Săn Cáo” như chính quyền Tập Cận Bình đang làm?    

Theo giáo sư Minxin Pei, chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình cho thấy tình trạng tham nhũng đã ăn sâu vào mọi ngõ ngách của chế độ (nhất là từ thời Giang Trạch Dân). Tuy nhiên, hoạt động chống tham nhũng vẫn chưa chạm đến cái gốc rễ quan trọng nhất là “tham nhũng đất đai”. Có đến 90% quan chức có thể bị bắt bất cứ lúc nào, trong khi số “quan thanh liêm” chỉ chiếm có 0,000001% dân số. (VOA, 29/10/2016). 

Chỉ cần quan sát dòng người và dòng vốn chạy đi đâu là biết tình trạng đất nước ra sao. Dòng người di cư ngày càng đông, gồm cả doanh nhân, trí thức, và quan chức, là dấu hiệu bất ổn về “chảy máu chất xám” (brain drain) và “tẩu tán vốn”, làm đất nước kiệt quệ. Đó là bi kịch của một quốc gia thiếu dân chủ, bị các nhóm lợi ích thao túng, trì hoãn đòi hỏi cấp bách phải đổi mới thể chế, để họ tranh thủ vơ vét nốt trước khi con tàu đắm. 

NQD. 18/3/2017


 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-3-17


......../.

Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ,...





Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ,...

(Bài phát biểu của Thiếu tướng Trương Giang Long, Giám đốc Học viện Chính trị CAND, tại một Lớp cập nhật kiến thức cho Cán bộ nguồn, năm 2016)

Trung Quốc, tôi xin thưa với các đồng chí là, không bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính chủ quyền của chúng ta ở Biển Đông. Không bao giờ từ bỏ giã tâm này. Mà cái này nó không phải chỉ là cái thời ông Tập Cận Bình này đâu, ông khác lên cũng sẽ như vậy thôi! Câu chuyện là bao giờ họ sẽ lấy và lấy bằng cách nào. Thưa các đồng chí, chính vì vậy mà chúng ta không loại trừ cái việc mà họ tìm mọi cách làm suy yếu từ bên trong. Chúng ta không loại trừ. Chúng ta phải nói rõ với nhau thế. Cho nên tôi xin nói với các đồng chí là, bọn xấu nó cài cắm, nó moắc ngoặc nó lôi kéo hồi xưa chỉ một vài người là đã nguy hiểm rồi, đã chết rồi. Bây giờ tôi thông báo với các đồng chí là nó đã có đến con số hằng trăm. Mà hàng trăm không phải chỉ là con số dừng lại ở hàng trăm, mà trăm này có thể cộng với trăm kia nữa chứ không phải chỉ trăm. Báo cáo với các đồng chí thế! Mà nếu chúng ta không phát hiện, không nghiêm trị thì...

Xin thưa với các đồng chí là đầu năm, trong hội nghị tổng kết về cái bảo vệ an ninh quốc gia, thì cán bộ chủ chốt chúng tôi được nghe đồng chí lãnh đạo cấp cao của ngành thông báo là chúng ta đang theo dõi, đang nắm rất chắc, rất chặt những cái diễn biến của các phần tử cơ hội chính trị mà có cái mưu toan móc ngoặc cấu kết với bên ngoài, do bên ngoài moắc ngoặc cấu kết để mà lật đổ, chống phá chế độ chúng ta. Những cái bộ phận ấy nó là ngòi nổ cho các cuộc bạo loạn, cho các cái điểm nóng chính trị. Mà chúng ta đó, thưa với các đồng chí, không thể xem thường và coi nhẹ!

Có người, sau khi những vấn đề với Trung Quốc nảy sinh, thì báo cáo với các đồng chí là, tôi xin nói lại là Trung Quốc xấu như vậy hay xấu nữa thì chúng ta cũng vẫn phải tìm cách chung sống thôi. Chỉ cố gắng phấn đấu làm sao để họ đừng xấu hơn. Nhá! Chứ bây giờ các đồng chí bảo là đổi Việt Nam đi chỗ khác hay đổi Trung Quốc đi chỗ khác là không bao giờ có rồi, vĩnh viễn mãi mãi là như thế này. Nó bất hạnh cho dân tộc chúng ta là sống bên cạnh một cái ông anh mà mức độ lòng tốt nó thấp, cái gen tốt nó thấp, cái gen không tốt nó vượt trội. Báo cáo các đồng chí là hiện nay họ đang khống chế chúng mình rất là kinh khủng; họ vào sâu, rất sâu hai ông hàng xóm của chúng ta rồi. Ông kia thì trở mặt hoàn toàn rồi. Đây là tôi nói ở trong nhà, nhá! Ông kia là xương máu chúng ta đổ chất đầy, miệng nói xoen xoét là: đời tôi, con tôi, cháu tôi, gia đình dòng tộc nhà tôi, tổ quốc tôi, đất nước tôi đời đời mãi mãi trân trọng ghi nhớ biết ơn; không có Việt Nam không có tôi, không có Việt Nam không có đất nước chúng tôi! Nhưng mà mồm nó nói thế, bên trong nó vẫn móc với thằng khác nó chơi mình. Cá nhân nó chơi mình thôi thì thưa các đồng chí là, chúng ta không dung thứ nhưng cũng còn có thể phải nghiến răng chấp nhận, nhưng mà bây giờ nó kéo cả quốc hội vào chống lại mình, kéo cả nhà nước chính phủ vào chống lại cái lợi ích cốt lõi nhất của chúng ta ở trên Biển Đông. Thì thưa các đồng chí, là vì thằng khác nó khống chế, chứ còn cá nhân một mình ông ta thì cho tiền không dám. Cũng như là cái cuộc chiến Biên giới Tây Nam, thưa các đồng chí, nhé, chấp 5 đời Pol Pot nó không dám phát động chiến tranh chống lại chúng mình. Nhưng mà ai, câu chuyện là ai đứng đằng sau, ai hà hơi, ai tiếp sức, ai cổ vũ, ai động viên, ai định hướng, ai xúi giục? Câu chuyện nó như vậy. Và một cái người anh em ruột của chúng ta... Lâu nay thì thưa các đồng chí là, chúng ta vẫn nói là "anh em", bây giờ nó giở chứng nó hỏi lại là thế thì "anh em thì ai là anh, ai là em?". Việt Nam mình thì cứ thằng nào đẻ trước, thấy mặt trời trước, đúng không, anh là mày, dưới là chú, chú em - đấy nó rõ như thế, nó minh bạch như thế. Thế lâu nay mình nước lớn hơn họ, thì không có nghĩa là mình nói là "tao anh, mày em", bây giờ nó hỏi ngược lại, có khi trong đầu mình nghĩ tình cảm “tao anh, mày em”. Bây giờ nó hỏi ngược lại thế thì ông nào là anh, ông nào là em?

Tôi nói với các đồng chí, đây là tôi nói mở ngoặc riêng với các đồng chí, tôi nói rất thật, là bây giờ mừng vô cùng các đồng chí ạ! Đại hội XII, Đảng ta mới bừng tỉnh, mới ghi vào trong nghị quyết của mình là: mọi chủ trương đường lối đối ngoại của chúng ta đều phải lấy lợi ích dân tộc làm trọng và đều phải xuất phát từ lợi ích dân tộc. Bây giờ các bố - đây là nói trong nhà - mới té ngửa ra như thế là chết cha chúng mình mấy đời rồi. Mà cái này thì không trách ai được, là bởi vì các đồng chí là, trên thế giới này, tôi không biết nhiều nhưng tôi dám khẳng định với các đồng chí: dân tộc Việt Nam là một trong những dân tộc mà chơi với bạn tốt đến mức là còn cái quần xà lỏn cũng chơi. Không ai chơi với bạn tốt như chúng mình, thậm chí tốt đến cái mức là sẵn sàng biếu không, tặng không bạn một bà vợ của mình. Đấy, chơi tốt đến thế là cùng chứ còn gì tốt hơn!? Tất nhiên là lão ấy hồi ấy ông có hai, ba vợ thì mới tặng một bà; chứ chúng tôi bây giờ có mỗi một bà mà tặng thì chết! Chơi với bạn tốt đến như thế, thưa các đồng chí, cái câu chuyện Lưu Bình – Dương Lễ mà ông chẳng mang hẳn bà vợ ông ấy tặng bạn à?! Tặng không ông bạn một bà vợ, mà còn cho cả tiền đem theo nữa cơ mà. Thì Việt Nam chúng ta là, cái tốt với bạn cũng xuất phát từ lịch sử truyền thống. Tôi xin lỗi các đồng chí là, cái gì chúng mình cũng có cái truyền thống lịch sử cả, mà chúng mình dựa vào tổ tiên ông bà chúng mình làm nên đất nước giang sơn bây giờ. Thì cái điểm mạnh mà mình khai thác thì đã đành rồi, nhưng mà cũng có những điểm mình không mạnh, mình vẫn từ đấy.

Cho nên là bây giờ, tôi nói xa hơn như thế về Trung Quốc, tức là họ gây sức ép rất ghê gớm. Mà bây giờ nó cũng chơi cái luật kinh tế thị trường, "mạnh về gạo, bạo về tiền" thôi, tất cả đều thắng. Nó nhá một phát thì ông Philippines là gần như quay 180 độ với cái cũ rồi. Câu chuyện là tiền! Cho nên các đồng chí phải nhớ là, nếu chúng ta để cho đất nước ở trong một cái nấc cứ lùng bùng thế này, mãi mãi trong đói nghèo, thì các cụ nhà mình dạy rất rõ "nghèo là hèn" thôi. Tôi nói là cơ thể lúc nãy, tôi muốn lưu ý các đồng chí đấy, nếu bây giờ mà thu nhập đầu người của chúng ta mà độ khoảng chừng 20 000, 30 000 USD, nhá, "đồ chơi" trong nhà chúng mình có, nhấn một phát chúng nó biết mình là ai thì thưa các đồng chí là, ba cái vụ điểm nóng này không có nhằm nhè gì mà phải quan tâm lo ngại nhiều. Câu chuyện nó là như vậy. Câu chuyện là nếu chúng mình mà, thôi thì, đây là nói ngoài lề để các đồng chí nghe, nếu bây giờ chúng mình có công nghệ cao nhấn một phát là chúng mày biết lễ độ là gì...

Hôm qua trên đường đến đây tôi đọc cái thông tin về Nga. Báo cáo các đồng chí là Nga bây giờ sản xuất một loại tên lửa mang đầu đạn hủy diệt lớn chưa từng có trong lịch sử loài người. Tốc độ bay 24 500 km/h. Chưa một cái loại tên lửa nào mà có tốc độ bay nhanh như vậy. Và ưu điểm của nó là gì? Một là, tốc độ rất nhanh; hai là, các phương tiện công nghệ kỹ thuật của đối hương không có khả năng phát hiện được; và ba là, mức độ hủy diệt, báo với các đồng chí là, gấp mấy ngàn, mấy chục ngàn lần cái quả bom nguyên tử. Ví dụ như người ta viết trên báo là, nếu bắn một phát thì toàn bộ NewYork là bị hủy diệt 3/4. Nếu bắn 1 quả là 3/4 bị hủy diệt. Vì sao mà Nga phải tiết lộ thông tin cơ mật này? Là bởi vì Mỹ đang ép Nga rất là quyết liệt, xung quanh cái vụ Ukraine và cái vụ Syria. Cho nên Nga phải móc đồ chơi ra, công khai hóa cho mày biết. Mày ngon thì mày cứ đụng đi! Chứ nếu mà, nói trộm vía mà các cụ nhà mình ngày xưa mà kha khá một chút mà chuẩn bị cho chúng mình có được một cái góc như thế thì bây giờ con cháu, mày nóng thế này chứ nóng nữa tao cũng dội nước cho mày nguội tươi. Thế nhưng câu chuyện là chúng ta không có cái đó.

Cho nên là, chúng tôi đang tập trung nghiên cứu, báo cáo với các đồng chí là, là bảo vệ tổ quốc, là "độc lập", bây giờ hiểu thuật ngữ “độc lập” là gì, độc lập là độc lập thế nào? Cho nên là về sau này, càng lớn lên càng đọc càng nghiên cứu tôi mới thấm vô cùng cái câu nói của bác Võ Văn Kiệt, bác nói rằng là: khi nào mà Đảng ta thật sự độc lập được về đường lối thì bấy giờ đất nước có những chuyển biến tích cực. Cho nên thân phận của một nước yếu...

Thế thì có người nói là bây giờ, trong tình hình như vậy thì thôi, theo cha nó Mỹ đi, để giải quyết vấn đề Biển Đông. Tôi xin lỗi các đồng chí là, thay bằng vào cái hang hùm thì sang hang cọp. Xui nhau thế! Câu chuyện là chúng ta phải độc lập, và hiểu cái thuật ngữ "độc lập" thế nào trong bối cảnh hiện nay. Chúng ta nghiêng về bất cứ chỗ nào, thưa các đồng chí, cũng đều thất bại hết. Thế thì bây giờ đó, tôi nói cái ý thứ hai là họ gây sức ép với chúng ta. Nếu mà chúng ta ngoan ngoãn, mà đi theo sự chỉ bảo của họ, thì chúng ta có cơ may là ổn định, bình yên. Còn nếu mà chúng ta không đi theo quỹ đạo của họ thì lập tức là bắt đầu nổi lên những điểm nóng. Tôi lấy ví dụ như vấn đề tôn giáo, vấn đề dân tộc, vấn đề dân chủ, nhân quyền,... Mỹ luôn luôn sử dụng như là công cụ phương tiện để mà gây sức ép. Ở các nước khác thì nó đánh bằng vũ lực, bây giờ nó đánh ta không được rồi thì nó dùng những công cụ này để nó gây sức ép với chúng ta. Tôi kể câu chuyện như thế này để các đồng chí thấy là mưu đồ của họ thế nào:

Ông đại sứ quán mới của Mỹ, trước khi sang nhậm chức thì có đến thăm xã giao Bộ Công an của chúng tôi, mà cụ thể là thăm đồng chí Tô Lâm - lúc bấy giờ anh là Thứ trưởng phụ trách an ninh của đất nước ta. Khi đến nói chuyện với anh thì anh khuyên ông ấy là "ngài sang làm đại sứ lần này thì đừng đi theo vết xe đổ mà những người tiền nhiệm của ngài đã từng đi!". Các ông đại sứ quán trước đó sang Việt Nam làm gì hả các đồng chí? Nó chủ tâm là đi móc ráp các phần tử bất mãn, các phần tử cơ hội chính trị có quan điểm khác lạ chống đối chúng ta. Để làm gì đấy? Nó xâu chuỗi cái lũ này lại thành một lực lượng, gây sức ép chúng mình. Nó đi đến các cái vùng đồng bào dân tộc, nó cho người đến, thông qua các cái tổ chức từ thiện mà chúng ta gọi là NGO đấy các đồng chí, để nó đến nó thâm nhập nó móc ráp, nó xây dựng, nó nhen nhóm cơ sở. Cũng là những cái phần tử bất mãn chống đối và một bộ phận người dân không nhận thức được, không thấy rõ được cái tâm địa độc ác nham hiểm. Cho tiền, tạo điều kiện hỗ trợ, kể cả cái việc tung hô về mặt chính trị xã hội để mà thu phục lôi kéo họ. Rồi gặp gỡ các cái tín đồ, các loại tôn giáo khác nhau để mà kích hoạt, để mà tập hợp quy tụ lực lượng. Thế nếu mà chúng ta mà mạnh, quan hệ chúng ta với họ mà tốt, thì lực lượng này nó đứng im, nó ngồi tại chỗ. Còn quan hệ chúng ta với họ mà có vấn đề gì đấy trục trặc, mục tiêu đặt ra, ý đồ mà họ không đạt được, nhất định họ dùng lực lượng này làm cái ngòi nổ xung kích gây ra cái điểm nóng chống lại chúng ta. Cho nên vì vậy mà đồng chí Tô Lâm cảnh báo cái ông đại sứ này là "ngài không được phép đi theo cái vết xe đổ mà những người tiền nhiệm của ngài đã từng đi!".

Các đồng chí biết lão ta ứng xử thế nào không? Ông ta cười rất tươi: "Cám ơn đồng chí Tô Lâm!", và ông ta nói với đồng chí Tô Lâm là: "Vâng thưa ngài! Tôi nhất định lần này sẽ không đi theo vết xe đổ của những người tiền nhiệm của tôi đã từng đi. Bởi vì con đường mà chúng tôi đã từng đi chỉ dẫn nước Mỹ tới thất bại thôi” - khẳng định như vậy cơ mà các đồng chí! - “Cho nên sứ mệnh của tôi, nhiệm vụ của tôi, trọng trách của tôi lần này sang Việt Nam là phải tìm mọi cách để mà hàn gắn, để mà nâng cấp cái mối quan hệ Việt Nam và Mỹ. Định hướng sang một cái trang mới, trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm chú ý đến cái việc tạo điều kiện cho tuổi trẻ hai nước Việt Nam và Mỹ gắn kết với nhau, quan hệ với nhau; cho phép mở rộng để có rất nhiều thanh niên Việt Nam sang Mỹ du học tại các trường đại học của Mỹ. Và mong muốn chân thành của chúng tôi là: những cái gì mà mấy chục năm nay nước Mỹ không làm được ở trên đất nước này, thì con cháu của các ngài, thế hệ trẻ Việt Nam trong tương lai, nó sẽ giúp nước Mỹ thực hiện được giấc mơ của người Mỹ.”

Thưa các đồng chí, một cuộc tuyên chiến rất sòng phẳng rõ ràng: cái gì thế hệ những người Mỹ bây giờ không làm được thì thế hệ trẻ Việt Nam trong tương lai, nó kỳ vọng là con cháu chúng ta sẽ làm được điều đó. Và tôi xin thưa với các đồng chí là họ chuẩn bị hết rồi, họ đang chuẩn bị từ bây giờ; họ chuẩn bị rất công phu, rất bài bản, mà nếu chúng ta không biết trước để ứng phó thì... Câu chuyện, thưa các đồng chí, bây giờ về mặt chiến lược, Mỹ mong muốn đến vô cùng có một Việt Nam nằm trong quỹ đạo liên minh của Mỹ, để đảm nhiệm sứ mệnh xoay trục châu Á mà Mỹ đang triển khai.

Thưa các đồng chí là, lâu nay chúng ta thấy rất rõ quan hệ Việt Nam và Nhật là quan hệ tốt, đặc biệt tốt. Chúng ta không những là xác lập đối tác chiến lược mà chiến lược toàn diện, không những là toàn diện mà là toàn diện sâu rộng; không những sâu rộng mà phải thiết thực, hiệu quả. Nghĩa là ngôn ngữ đó, trong quan hệ đó, những gì tốt nhất là chúng ta dùng cả rồi. Không có cái từ nào tốt hơn mà chúng ta không dùng trong quan hệ Nhật Bản và Việt Nam. Và trên thực tế, bạn cũng đã phối hợpvới chúng ta một cách rất nhiệt tâm, chân thành và có hiệu quả trên nhiều phương diện, trong đó kể cả lĩnh vực ở bên trong, an ninh quốc phòng của chúng ta. Tôi xin nói với các đồng chí như vậy! Nhưng mà câu chuyện là, thưa các đồng chí, nước Nhật là ai? Câu chuyện mà chúng ta phải trả lời: nước Nhật là ai? Nước Nhật là nước Mỹ thứ hai. Mỹ bây giờ vào Việt Nam được như Nhật thì khó lắm, nói vậy thì nói chứ lòng người chưa phải lúc nào cũng là yên bình khi đón tiếp Mỹ đâu, mặc dù bây giờ thái độ của Mỹ khác! Nhưng không phải Mỹ vào Việt Nam như Nhật Bản được. Về mặt chiến lược chúng ta phải nhận ra cái điều đó. Bây giờ chúng ta có cần, chúng ta cần có Mỹ không? Chúng ta rất cần các đồng chí ạ! Nhé! Chúng ta rất cần!

Báo với các đồng chí là ở đây tôi nói trong phạm vi rất là hẹp, để các đồng chí biết nhé, giờ mà các ông cứ ghi, các ông đọc thế này mà nhiều người nghe thì tôi không dám nói. Tôi nói một thông tin. Các đồng chí theo dõi trên báo chí thì các đồng chí biết hết rồi:

Trung Quốc rất hung hăng sau khi mà Tòa trọng tài tuyên án về cái phán quyết tranh chấp ở Biển Đông, và Trung Quốc đã chuẩn bị sẵn sàng. Họ dự định là chiếm lấy bãi cạn ngay tức khắc, và họ cũng cơi nới mở rộng như đã cơi nới mở rộng ở trong phạm vi chúng ta. Thậm chí là họ còn tính đến cái việc ngay lập tức tuyên bố thiết lập vùng cấm bay, ngay lập tức là sẽ đánh chiếm một số mục tiêu khác để dằn mặt, trong đó không loại trừ là có Việt Nam. Chuẩn bị sẵn sàng rồi. Nhưng mà họ biết được một cái thông tin, là thưa các đồng chí, 15 phút nếu Trung Quốc tuyên bố thì toàn bộ 7 cái đảo của Trung Quốc chiếm đóng trái phép trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam lập tức sẽ trở thành bình địa ngay tức khắc, lập tức nó sẽ trở về vị trí ban đầu, nó bị xóa tên trên cái bản đồ quân sự chính trị của Trung Quốc. Thay đổi thái độ ngay, Trung Quốc thay đổi thái độ ngay. Cho nên bây giờ họ rất ngại là chúng ta ngả về đâu, nghiêng về đâu, họ ngại vô cùng. Cho nên các đồng chí thấy là trước khi đồng chí Tổng Bí thư của chúng ta sang thăm Hoa Kỳ, là họ mau chóng phải mời Tổng Bí thư của chúng ta sang thăm Trung Quốc. Lúc đầu là nó không mời đâu, nó chưa mời đâu, nó còn lắng nghe, còn theo dõi, còn đắn đo, còn cân nhắc, còn xem xét chán. Báo với các đồng chí là, ở đây tôi nói mở rộng thêm để các đồng chí nghe... Các đồng chí phải hiểu thật sâu cái nguyên nhân bên ngoài và bên trong, thì mới thấy được tình hình đất nước và mới giải quyết các cái điểm nóng chính trị xã hội, kể cả là an ninh tôn giáo bây giờ.

Báo với các đồng chí là, nước Mỹ đó, tức là Trung Quốc họ không dự đoán hết được. Là bởi vì trong lịch sử chưa bao giờ nước Mỹ mời một cái nguyên thủ cộng sản nào sang thăm Mỹ. Lịch sử nước Mỹ chưa từng có. Kể từ khi có chủ nghĩa xã hội đến bây giờ, Liên Xô hùng mạnh như vậy, Trung Quốc hùng mạnh như vậy, nó cũng không mời ai. Cho nên Trung Quốc nó rất ngại. Ông ấy mới chuyển sang một cái xu hướng nhất thể, vì ông ấy muốn chơi với Mỹ mà. Trung Quốc, tôi không có thời gian nói sâu với các đồng chí, nếu mà có một cái chuyên đề... thì tôi sẽ nói thật sâu cho các đồng chí nghe cái chuyện Trung Quốc họ đi đêm như thế nào.

Trung Quốc rất cần Mỹ. Mà tôi nói thật với các đồng chí là, cái cải cách đổi mới của Trung Quốc thành công như hôm nay có một phần là cũng dựa vào Mỹ. Dựa rất quan trọng bởi vì công nghệ ở đâu, tiền ở đâu, thị trường ở đâu nếu không có Mỹ hà hơi tiếp sức. Cho nên đánh Việt Nam là nằm trong cái chiêu kế mà Đặng Tiểu Bình thời bấy giờ nó chọn để nó có được Mỹ. Nói như vậy để các đồng chí thấy. Thế thì nó biết như thế, nó biết rằng là trong lịch sử nước Mỹ chưa bao giờ và không bao giờ mời Tổng Bí thư, mà có mời thì sang cũng là không thể đón tiếp theo nghi thức quy định của nhà nước Mỹ. Nhưng mà bây giờ thì thưa các đồng chí, tình báo nó đan xen thì nó biết thôi. Các đồng chí hình dung là: lần đầu tiên trong lịch sử của loài người, của chủ nghĩa xã hội, từ khi có nước Mỹ, mời đồng chí Tổng Bí thư của chúng ta sang, không phải với tư cách là một nguyên thủ quốc gia. Là lãnh tụ của một đảng, nhưng mà nước Mỹ chấp nhận đón đồng chí Tổng Bí thư theo đúng nghi thức của một nguyên thủ quốc gia, cấp cao. Đấy là cái tiêu chí thứ nhất. Tiêu chí thứ hai là, thưa với các đồng chí, đồng ý tiếp rồi nhưng mà câu chuyện là: tiếp ở đâu? tiếp ở chỗ nào?

Tôi nói câu chuyện Mỹ đó, thì tôi muốn minh chứng cho các đồng chí là những cái điểm nóng ở trong nước chúng ta nó có những cái nguyên nhân từ bên ngoài, và tôi thông qua cái việc này, bằng thực tiễn, tôi mới phân tích để các đồng chí thấy là Đảng ta giải quyết cái điểm nóng trong nước bằng những cái việc mà ứng xử ở bên ngoài như thế nào. Để các đồng chí thấy, thấy cái cách thức của Đảng và nhà nước chúng ta, là Đảng ta ứng xử rất tuyệt vời.

Tôi xin trình bày tiếp với các đồng chí là, khi mà Mỹ thỏa thuận mời đồng chí Tổng Bí thư của chúng ta sang, thì cái việc đầu tiên chúng ta phải khẳng định đây là một cái việc làm có thể nói là có ý nghĩa lịch sử, và như đồng chí Tổng Bí thư kết luận, là Mỹ chưa mời ai trong toàn bộ lịch sử nước Mỹ. Và sau khi đồng ý mời với một cái nghi thức tiếp như là tiếp một nguyên thủ cấp quốc gia, nghi thức cao nhất, thì câu chuyện là: bây giờ tiếp ở đâu? Lúc đầu thì họ nói với chúng ta là họ phải tiếp ở một cái chỗ khác, không phải là Nhà Trắng. Nhưng mà Bộ Ngoại giao của chúng ta đặt ra là: Không! Đã tiếp với nghi thức cao nhất là phải tiếp ở Nhà Trắng. Mà các đồng chí biết là Nhà Trắng là gì, là cái nơi mà nước Mỹ chỉ dành để tổ chức những sự kiện lớn nhất trong lịch sử. Và như vậy, tiếp đồng chí Tổng Bí thư của chúng ta tại cái Tòa Bạch Ốc tức là tiếp ở một cái nơi diễn ra những sự kiện quan trọng bậc nhất của nước Mỹ. Thế sau khi đồng ý tiếp đồng chí Tổng Bí thư ở Tòa Bạch Ốc rồi, thì câu chuyện tiếp theo là, vậy thì đó, là tiếp xong thì ra thông cáo chung hay là ra tuyên bố chung? Phía Mỹ nó hạ 1 cấp, nó bảo chỉ thông báo chung thôi chứ không có tuyên bố chung. Thế thì ta là kiên quyết không đồng ý. Nếu mà chúng tôi đến bàn luận với nước Mỹ những vấn đề căn cơ, nhá, cả quốc tế cả những vấn đề quan điểm của Việt Nam và Mỹ về những vấn đề quốc tế, lẫn quan điểm của Việt Nam và Mỹ về vấn đề quan hệ song phương, là phải ra tuyên bố chung.

Thì tôi bí mật nói với đồng chí là trong cái chuyến đi của Tổng thống Barack Obama, thì các đồng chí thấy rằng là người ta nói đến một cái bông hoa hồng đằng sau Tổng thống Mỹ, với tư cách là một cố vấn an ninh quốc gia cho Tổng thống Mỹ, là người gốc Việt Nam. Thì anh em mình mới nói chuyện là: cái con mẹ này nó được giao chuẩn bị cái tuyên bố chung giữa ta và Hoa Kỳ. Trong quá trình chuẩn bị, thì thưa với các đồng chí là, anh em mình tìm mọi cách tiếp cận, để cố gắng khai thác cái yếu tố Việt Nam, để cho ngôn ngữ khái niệm trong bản tuyên bố chung này làm sao cho nó mềm mại, duyên dáng và có lợi cho chúng ta nhất. Thì các đồng chí thấy là, cả trong quá trình cô ta làm việc với các cái cơ quan chức năng của Việt Nam, không hề nói một câu tiếng Việt nào, toàn nói tiếng Anh. Nhưng mà sau khi chuẩn bị xong, đôi bên ký tắt rồi, ký tắt tức về nguyên tắc là xong rồi các đồng chí ạ, ra hai ông ký là chính thức thôi, còn công tác chuẩn bị là từ bên trong - thì cô ta mới nói một câu tiếng Việt, nói rành rọt như Việt Nam, là bởi vì người Việt Nam mà, nói rất chuẩn, tiếng Nam Bộ như mình. Nói với anh em mình là "tôi chỉ có một nghĩa vụ duy nhất là phục vụ vô điều kiện lợi ích của nước Mỹ". Nói bằng tiếng Việt. Đau như thế mà! Một khi mà người ta đã từ bỏ, đã phản bội rồi thì câu chuyện ở phía đằng sau là cực kỳ nguy hại. Thế và thưa với các đồng chí là, ở trong cái tuyên bố chung ấy có rất nhiều điểm mà sau này nếu có thời gian thì phân tích các đồng chí nghe, là rất có lợi cho chúng ta.

Bây giờ báo cáo với các đồng chí là trong 5 nước thường trực Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc thì ta đã bình thường hóa quan hệ, và đã ngồi ở mâm trên rồi. Hồi xưa họ ở trên mình ngồi dưới, bây giờ là ăn cùng mâm, ngồi cùng bàn với các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ngồi mâm trên, mâm cao. Mà cũng phải nói thật là thời của các cụ thì không bao giờ có thể mơ ước cái việc này, nhưng mà chúng ta thế hệ đi sau, con cháu làm được cái việc vĩ đại như vậy. Nhưng mà sau khi mà thỏa thuận, đồng ý là tuyên bố chung thì vấn đề phía sau là, thế thì chiêu đãi đoàn ta là chiêu đãi ở đâu? Thì thưa các đồng chí là, ta cũng phải ra tối hậu thư với phía Hoa Kỳ là phải chiêu đãi ta ở cái nơi trọng thể nhất mà nước Mỹ đã từng chiêu đãi các nguyên thủ quốc gia khác, ta mới chịu. Và sau 4 cái tiêu chí mà ta ra điều kiện, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý chấp thuận với chúng ta rồi, thì có một cái đề nghị thứ năm là tổng thống Barack Obama của Mỹ phải sang thăm đáp lễ đồng chí Tổng Bí thư của ta. Thì báo cáo với các đồng chí là, ông ấy đồng ý nhưng mà ông ấy lại nêu ra một cái lịch trình của ông ấy là: ông ấy sang G7 trước, ở Nhật trước, rồi xong G7 ông ấy mới đi sang thăm Việt Nam. Ta cũng đặt điều kiện với phía Hoa Kỳ là: Không! Ông phải sang thăm Việt Nam trước, rồi từ Việt Nam ông mới đi đến G7, rồi ông đi về, chứ chúng tôi không chấp nhận ông đi đến G7 rồi mới đi sang Việt Nam. Nghĩa là, chuyến thăm sang Việt Nam đáp lễ Tổng Bí thư của chúng ta phải là chuyến thăm chính thức, danh chính ngôn thuận chứ không có cái kết hợp tay đôi tay ba gì ở đây cả.

Tôi muốn nói như vậy với các đồng chí để thấy là gì? Thấy được cái thế của ta bây giờ với Mỹ là một thế hoàn toàn khác. Vì sao mà chúng ta có được một thế khác như vậy với Mỹ? Một là, Mỹ vô cùng cần chúng ta; hai là, trong các cái nhân tố mà Mỹ phân tích về Việt Nam đó, thì Mỹ cũng thấy rất rõ không có một đảng phái chính trị nào có thể lãnh đạo quản lý đất nước bằng Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cho nên hôm qua, trong cái thông cáo về chuyến đi của đồng chí Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban Bí thư gặp Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đó, nước Mỹ nói rất rõ là quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam là một kênh quan hệ quan trọng về ngoại giao. Câu chuyện là như vậy. Câu chuyện là, người ta biết rất rõ là dùng vũ lực để mà đánh chúng mình không được, không ổn, không thu phục được chúng mình; dùng bao vây cấm vận cũng không thể mà khống chế đè bẹp được chúng mình rồi. Bây giờ Mỹ phải dùng một phương cách khác, lôi kéo Việt Nam về phía Mỹ, tạo mọi điều kiện để Việt Nam cùng chung đội hình với Mỹ để mà chống lại Trung Quốc. Báo với các đồng chí là, họ biết rất rõ rằng là chỉ có Việt Nam mới có thể chống lại được Trung Quốc thôi. Lịch sử 23 cuộc chiến tranh mà dân tộc Việt Nam phải đối đầu có 21 cuộc chiến tranh chúng ta phải đối đầu với Trung Quốc rồi, chưa bao giờ Trung Quốc thắng được Việt Nam, kể cả cái việc Trung Quốc có mặt đô hộ đất nước này dân tộc này 1000 năm, cũng vẫn không thể thắng được.